|
THIỀN TRỊ LIỆU | Tâm lý trị liệu trên nền tảng Thiền Phật giáo
Cuộc đời vốn dĩ có khổ. Những nỗi khổ đau luôn bao trùm và chồng chất lên nhau. Vậy khổ do đâu mà có? Từ đâu mà khổ sinh ra? Con người họ cứ mãi đổ thừa rằng khổ là do cuộc đời này mang lại. Nhưng ở góc nhìn của một người học Phật, khổ hiện hữu là ở nơi tâm mình. Tâm ta hay thân ta, sáu căn của ta, thân ngũ uẩn này của ta, khi ta sinh ra thì những ý nghĩ đó đã được mặc định cho ta từ cha mẹ, từ thân quyến, từ môi trường xung quanh và các mối quan hệ xã hội. Những mặc định đó dần hình thành trong sâu thẳm tâm thức của ta mà chính ta không thể nhận thức được. Đó là “ngã”. Ta thường hay bồi dưỡng cho cái ngã của ta trong vô thức, dần dần, cái ngã tham lam, cái ngã đầy sân hận và si mê, cái ngã điều khiển ta mà ta lại vô tình cho rằng những hành vi của mình là đúng. Nếu là một con người chưa được học tập giáo lý nhà Phật thì làm sao biết được mà dừng lại những tham muốn của tâm và thân, làm sao biết được khổ là nơi tự ta sinh khởi chứ không phải do chỗ khác mà có hay làm sao biết được con đường để diệt sự khổ đau ấy. Vậy nên, là một người xuất gia cần phải biết con đường dẫn đến sự diệt tận khổ đau ấy là con đường tu tập Thánh đạo Tám ngành, nghĩa bao hàm trong tu Giới, tu Định và tu Tuệ, tức Tam Vô Lậu Học. Mà Thiền chính là phương pháp mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni Buddha) đã tinh tấn tu tập xuyên suốt trong 49 ngày đêm dưới cội cây Tất Bát La (còn gọi là cây Bồ Đề - Bodhi Tree) để chứng được Thánh quả tối thượng, thấu rõ nguyên nhân của khổ đau mà sáng tỏ con đường diệt khổ. Phật Quang Đại Từ Điển giải thích rằng Thiền là Hán dịch từ tiếng Sanskrit (Phạn) Dhyana (Thiền-na) và tiếng Pali là Jhana (Thiền), có nghĩa là Tĩnh lự, Tư duy tu tập, Khí ác, và Công đức tùng lâm. Thiền chỉ cho trạng thái định tuệ đồng đều, tâm chuyên chú vào một đối tượng nào đó, rất vắng lặng để tư duy một cách sâu sắc, rõ ràng. Thiền là pháp cho tất cả Phật tử và không phải Phật tử… nhưng mục đích đạt đến và đối tượng tư duy thì đều khác nhau. Thiền và các thứ định khác gọi chung là thiền định; cũng có thuyết cho Thiền là một loại định nên gọi tu thiền trầm tư là Thiền tư. (Thích Quảng Độ, Phật Quang Đại Từ Điển, Tập V, Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất bản, tr. 5781-5782). Này các thầy Tỷ-kheo, con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt qua mọi sầu não, khổ, ưu, thành tựu chánh lý, hiện chứng Niết-bàn là con đường này: Đó là Bốn Niệm Xứ. Hiểu được định nghĩa về Thiền Tứ Niệm Xứ, con đường sáng tỏ chân lý ngày một được khai mở và đến gần. Bốn Niệm Xứ là bốn con đường quán niệm về Quán Thân, Quán Thọ, Quán Tâm và Quán Pháp. Con người hạnh phúc hay khổ đau là do nơi tâm mình. Khi thân xúc chạm, tâm sẽ cảm thọ được vật chất tiếp xúc qua thân hay tinh thần tiếp xúc qua tâm. Tâm cảm thọ được là thông qua quá trình trải nghiệm, học tập trong đời sống lẫn trong môi trường giáo dục hình thành nên vòng tròn nhận biết có sẵn trong tâm thức. Nhưng nếu con người chưa được tiếp cận giáo lý nhà Phật, đôi khi con người cảm thọ sự khổ đau nhưng lại cho nó là sự vui thích, như trong Tâm lý học có nhắc đến bệnh lý “khổ dâm”, tức người đó sẽ tận hưởng khoái lạc trong sự hành hạ thể xác nặng nề ở bạn tình của mình. Sau khoái lạc, người đó sẽ cảm thấy đau đớn về thể xác cũng như những hối hận liền xuất hiện ở tâm. Vậy đó có phải là thân và tâm đều chịu khổ do ham muốn nơi thân không? Vì thế, một người xuất gia, từ những ngày đầu chập chững học tập giáo pháp nhà Phật, chấp nhận cắt bỏ những ràng buộc của cuộc đời, khắc kỷ thân tâm mong mỏi một ngày đoạn dứt điều ác, thực hành điều thiện mà thành tựu chân lý thì việc đầu tiên phải xác định rõ được con đường mà đức Phật đã tu tập chứng ngộ là ở đâu? Đức Phật Thích Ca, Ngài đã trải qua suốt bao năm tháng ròng rã tu tập thiền, tuy là thiền ngoại đạo (Bà-la-môn giáo) nhưng Ngài cũng đã chứng đến cảnh Phi tưởng phi phi tưởng xứ-cảnh giới cao nhất của Thiền ngoại đạo, tuy vậy Ngài vẫn cảm thấy chưa đoạn dứt cảnh sanh tử khổ đau; cho đến khi Ngài quyết từ bỏ lối tu khổ hạnh, chuyên tâm thiền định trong suốt 49 ngày đêm thì liền chứng đạo quả. Ngài dạy nguyên nhân chính để nhập định và đạt được trạng thái đầy uy lực tột đỉnh của nội tâm đó chính là khả năng buông xả và từ bỏ. Nói tóm lại, Thiền là một trong ba thành tố cốt lõi của con đường Trung đạo hướng đến sự giải thoát. Ai trong chúng ta không thực hành thiền định thì chắc chắn không bao giờ ta đạt được tuệ giác, đạt được Niết-bàn như lời Đức Phật đã dạy:
Quán Tâm là một trạng thái tâm chuyên chú, chuyên nhất chỉ nghĩ đến tâm mình. Một ngày, hai ngày, hay vài tháng vài năm, nếu chúng ta không nhìn lại tâm mình thì chắc hẳn tâm ta đã luôn chạy theo phiền não tham muốn, yêu ghét, tốt xấu, danh vọng địa vị hay quyền uy của cuộc đời. Vậy người tu là phải buông xả những điều kiện ngoài thân mà quay về chăm sóc trưởng dưỡng đạo tâm. Khi tâm ta tĩnh lặng, ta có sự cảm nhận và trải nghiệm sâu sắc về tâm, cảm nhận được sự tồn tại của tâm và mọi thứ xung quanh. Từ đó mà diệt trừ được các ác pháp nơi thân đã làm, tâm đã nghĩ và duy trì được định hướng thiện lành mà tâm mong muốn, cũng như mang lại sự an lạc nội tâm. Trải qua quá trình được học tập, tiếp thu kiến thức và trải nghiệm thực hành Thiền trong suốt một học kỳ vừa qua niên khóa 2023-2024, tôi đã có những trải nghiệm sâu sắc và đáng nhớ khi thực hành thiền quán tâm của mình. Tôi thấy rõ những sự hơn thua, thương ghét, đố kỵ, ganh tỵ nơi tâm. Những sự tu tập trước đây của tôi, tôi cảm thấy mình thật ích kỷ. Khi lần đầu ngồi lại một chỗ, nhắm mắt lại, điều chỉnh hơi thở vào ra, tâm tôi liền chỉ xuất hiện những người hay nói xấu tôi, trách móc tôi, tôi liền chỉ thấy thân mình đang dần nóng lên, sự tức giận liền nổi lên và ý nghĩ “trả đũa” đã xuất hiện. Những người làm cho tôi vui, tôi hài lòng, tôi cũng chỉ cảm thấy họ lợi dụng những lợi ích khi ở cạnh tôi mới làm tôi vui, tôi liền nảy sinh tư tưởng ghét họ và không muốn nhìn mặt hay giúp đỡ ở lần gặp mặt sau. Có phải chăng tâm tôi luôn hiện hữu những ý nghĩ như thế, tuy không thể hiện ra những hành động ngoài thân, nhưng trong sâu thẳm tâm tôi thật sự ích kỷ. Những cảm giác, tri giác, những tâm lý mà tôi luôn cố nghĩ rằng mình luôn lương thiện, luôn vui vẻ và hòa đồng có thật sự là tốt không? Tốt cho người khi tôi vui vẻ bên ngoài mang lại sự vui vẻ cho họ nhưng liệu tôi có thật tâm tốt không? Hay những ý nghĩ, tâm lý ấy có thật sự mang lại niềm an lạc tự nơi tâm không? Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra trong đầu tôi lúc ấy. Những buổi thiền tập quán hơi thở sau đó, tôi dần dần lấy lại được sự bình tĩnh vốn có của tâm, từ từ tôi phân biệt và suy tư về nó, điều gì khiến tôi vui, điều gì khiến tôi buồn, tôi hạnh phúc lúc nào và ở đâu? Khi hơi thở dần được điều hòa ở lần ngồi thiền sau, tôi nhận thức được rằng, do tâm tôi còn bám víu và chấp chặt vào cái ngã của mình, sợ cái ngã tổn thương, sợ cái ngã đau khổ mà thân tâm tôi lúc nào cũng sẵn sàng hi sinh vì cái ngã. Ngay khi đó, tôi liền cảm thấy rằng bản thân cần buông xả những ràng buộc đó, vì có xả bỏ thì mới có sự an lạc nơi tâm. Có an lạc tự tâm thì mới tiếp thu được chân lý nhà Phật, từ đó mà phát triển được tuệ giác, thấu rõ được cội nguồn và căn cơ của các pháp. Khi từ bỏ được những ước vọng tham lam của tâm, những ham muốn ăn mặc, ngủ nghỉ, danh lợi của thân, tôi liền nhận thấy rõ thân tâm nhẹ nhàng thong dong, không còn vướng bận vào bất cứ điều gì hay việc gì xảy đến, thấy rõ mọi thứ xung quanh hiện diện được là một việc hy hữu. Nếu không có những khổ đau trong mong cầu không đạt được, những yêu thương không được đáp trả, những mối thù hận riêng tư hay những thành tựu mà bản thân có được trong quá khứ thì chắc hẳn việc thiền tập quán tâm sẽ không mang lại kết quả tối ưu. Sau khi được trải nghiệm môn học, tôi thấy rõ trong mình luôn hiện hữu sự hạnh phúc, niềm an lạc mà trước nay chưa từng có được. Tôi cảm nhận được những bước chân mà tôi đang đi, hơi thở mà tôi đang thở, bầu không khí mà tôi đang nương hơi thở duy trì sự sống, những chiếc lá, cành cây hay tất cả những người đến với tôi,… tôi đều thật tâm cảm thấy mỗi sự vật hiện hữu, hữu hình hay vô hình đều mang một ý nghĩa tuyệt vời. Tất cả mang một sứ mệnh cao cả giúp tôi có được hạnh phúc ngày hôm nay. Tôi thầm tri ân tất cả. Tác giả: Thánh Minh
Ni sinh trường TC Phật học Tiền Giang Biên tập: QH
0 Comments
Trong Kinh Pháp cú kệ 3, Đức Phật đã dạy: Tâm hoảng hốt dao động Quán tâm là sự tập trung nhận diện và làm việc với các tình huống khác nhau của tâm. Kinh niệm xứ (MN 10) cũng nói rõ, khi quán tâm, chúng ta sẽ biết rõ liệu tâm của mình có tham lam hay không. Khi tập trung nhìn vào tâm, chúng ta sẽ tường tận thấy hết các diễn biến khác nhau của nó. Đặc biệt, đối với những người mới bắt đầu làm quen với thiền quán, sẽ không tránh khỏi sự vọng tưởng của tâm. Chính bản thân tôi cũng từng trải qua những trạng thái như vậy, những vọng tưởng liên tục nối tiếp nhau, khiến cho tâm không được yên. Trong những tình huống như vậy, tôi đã học cách chế ngự bằng cách hít thở thật sâu, bước đầu đếm hơi thở từ 1 đến 10 và ngược lại để xua tan những vọng tưởng đó trong đầu. Về tâm, Đức Phật đã giảng rằng có tổng cộng 16 loại tâm có thể lấy làm đề mục thực hành quán tâm, bao gồm:
Nhờ sự nhìn tâm như vậy, khi chúng ta có tâm tham khởi, sẽ biết khi nào ta đang tham; hay khi nào thấy ta đang sân nếu thực hành chánh niệm ngay ở thời khắc tâm sân sinh khởi. Trong cuộc sống hàng ngày, làm thế nào để tránh khỏi những điều không vừa ý? Nhiều khi sẽ có những chuyện khiến chúng ta bực dọc khó chịu. Người đời có cái khó khăn của họ, còn người tu sĩ chúng ta lại có những cái khó khăn của người tu sĩ. Đã sinh ra làm một con người, ai cũng sẽ có những vấn đề, thử thách khó khăn cả. Việc thực hành thiền cũng vậy, rất cần có thời gian để tự mình trải nghiệm. Thiền không phải một hình thức chỉ để chúng ta nói suông, nó là một quá trình dài, cần sự kham nhẫn của cá nhân đó. Là một hành giả mới bắt đầu tìm hiểu về thiền, cần biết rằng Thiền được chia ra rất nhiều nhánh, tuy nhiên ở đây tôi chỉ nói đến một khía cạnh của việc thực hành quán tâm như trong Kinh Tứ Niệm Xứ mà thôi. Chính vì bản thân có duyên lành được trải nghiệm cùng đại chúng trong chuyến đi về Trung tâm thiền Vipassana của thầy Hiệu trưởng, mà với tôi đó là một ngày tu trải nghiệm thật đáng nhớ. Nó ấn tượng bởi vì, đây là lần đầu tiên bản thân tôi được kinh nghiệm một thời khóa như các hành giả chuyên tu. Tuy đã được thông báo trước đó là hai tuần, nhưng trong lòng tôi thấy nôn nao vô cùng. Bản thân luôn ở trạng thái nghi ngờ cho chính mình, bao nhiêu câu hỏi luôn khởi trong đầu, liệu trong chuyến đi này, mình có thu hoạch được gì hay không, nhiều câu hỏi đặt ra rồi lại trăn trở xen lẫn là sự sợ hãi. Sở dĩ lo lắng như vậy vì bản thân tôi trước giờ ít khi thực hành thiền, lại chưa có kinh nghiệm thực hành thiền nhiều. Có chăng nữa là thi thoảng tôi có đi kinh hành, vì bản thân tôi hay thường xuyên bị áp lực, không biết chia sẻ, tâm sự cùng ai. Những lúc như vậy tôi thường đi kinh hành, cốt để thả lỏng tâm mình, những lần đó khiến tâm tôi rất bình yên. Việc đó cứ âm thầm lặp đi lặp lại khiến cho tôi cũng trở nên thuần thục và cảm thấy thích thú với nó, xem nó như một cách giải tỏa áp lực. Rồi ngày ấy cũng đã đến, ngay từ sáng sớm khoảng 6h, hai chiếc xe đã chờ đợi chúng tôi ở đúng địa điểm. Đại chúng này, tức là tập thể ni sinh khóa IX của chúng tôi, sẵn sàng bắt đầu hành trình dài hơn 25km từ nội thành Mỹ Tho đến huyện Châu Thành, Tiền Giang. Cuối cùng, chúng tôi đã đặt chân đến Trung tâm thiền của thầy. Điều đầu tiên khiến tôi say mê là sự yên bình nơi đây. Lối vào trung tâm được bao bọc bởi những hàng dừa xanh mát, không khí phải nói hết sức trong lành. Dọc hai bên lối đi, tôi chỉ cảm nhận một màu xanh của cây lá, tạo nên một khung cảnh đậm chất thiền nơi vùng thôn giã. Sau một lúc được nghỉ ngơi, sư cô giáo thọ đến và bắt đầu hướng dẫn chúng tôi vào bên trong chánh điện để ngồi thiền. Ngồi yên lặng như thế tầm khoảng 30 phút gì đó rồi chúng tôi được nghỉ giải lao, bắt đầu công cuộc đi kinh hành xung quanh Trung tâm thiền. Trước tiên, sư giáo thọ cho cả lớp ni chúng tôi xếp thành các hàng đối xứng nhau. Tuy nhiên, chúng tôi đều được nhắc nhở: "Tất cả mọi người phải tịnh khẩu trong lúc đi hành thiền, không ai được nói đến ai, hay ai được nhìn ai, mà phải tập trung tự mình trải nghiệm." Điều này thật sự tuyệt vời, vì sư giáo thọ mong muốn chúng tôi hiểu rõ hơn về lợi ích của việc hành thiền. Sau đó, chúng tôi bắt đầu những bước đi đầu tiên, đi chậm rãi với sự hướng dẫn của sư giáo thọ. Cả đại chúng theo đều theo nhịp bước đi trong khuôn viên Trung tâm, từng bước kinh nghiệm cuộc hành trình trên những đoạn đường không quá dài, nhưng vừa đủ để tâm trí tôi bắt đầu thấm nhịp. Ban đầu, tôi còn tò mò với cảnh đẹp xung quanh và đôi ba lần liếc mắt để nhìn xem. Sau khi sư giáo thọ nhắc nhở, tôi bỗng nhận ra và quay lại việc thực hành chú tâm. Khi những bước chân quen dần, một cảm nhận bình an chợt xuất hiện trong tâm và tôi bắt đầu nhận thức sâu sắc rằng hình như tôi chưa bao giờ thực sự sống cho chính mình. Những suy nghĩ trong đầu tôi xoay quanh một câu hỏi lớn: "Mình đang theo đuổi điều gì suốt thời gian qua?" Đó là câu hỏi quẩn quanh tâm trí tôi xuyên suốt buổi kinh hành. Những thắc mắc này khiến tôi hi vọng rằng mọi nghi ngờ trong tâm sẽ được giải đáp. Sau một thời gian kinh hành, tiếng chuông từ xa báo hiệu chúng tôi tập trung về chánh điện để bắt đầu giờ tọa thiền. Trong thinh lặng, mọi người tự tìm về chỗ ngồi của mình. Tôi chọn một vị trí gần sư giáo thọ, có lẽ do tin rằng từ trường ấy có thể giúp tôi ngồi yên. Đúng là một suy nghĩ khá con nít, vì khi bắt đầu ngồi xuống, tôi lại gặp khó khăn với đôi chân của mình bởi hậu biến chứng từ một chấn thương vỡ khớp gối do té xe năm học lớp 8. Cuối cùng tôi quyết định ngồi tư thế bán già cho đỡ đau chân. Lúc đầu, tôi cảm thấy thật khó khăn. Ôi thôi! Bao nhiêu vọng tưởng, suy nghĩ này đến suy nghĩ kia nó cứ xuyên suốt nối tiếp nhau khiến cho tôi cảm thấy bất an vô cùng. Tôi cảm thấy tự ti khi mà mình có những động tác nhúc nhích ngọ nguậy, không tài nào mà ngồi yên cho được. Thế rồi tôi chuyển hướng tâm trí đến sư giáo thọ, nhìn thấy hình ảnh người ngồi yên như một tượng Phật, tôi tự nói: "mình nhất định phải ngồi được". Thế là tôi bắt đầu, hít thở lại thật sâu, làm như vậy liên tục khoảng ba bốn lần gì đó rồi. Đây chỉ là cách tạm thời tôi muốn xua tan những suy nghĩ kia trong đầu. Bắt đầu tôi đếm từ 1 đến 10 và ngược lại như thế cho đến khi không bị nhầm, thì tôi không đếm nữa. Đó là cách mà tôi được học từ một sư cô ở Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức, chính sư cô đã dạy cho tôi khi tôi còn là phật tử. Dịp đó, tôi được tham gia cùng các bạn trong chuyến hành hương cúng dường. Khi ngồi một lát, vọng tưởng trong tôi cũng lần vơi bớt. Tôi bắt đầu cảm nhận một trạng thái an lạc hơn, và ngồi thiền lâu hơn so với mong đợi ban đầu. Vì trước giờ tôi chưa bao giờ ngồi lâu như vậy. Thời gian trôi mau, tôi chuyển qua đề mục thiền tâm từ. Tôi tác ý muốn hiểu rõ bản thân và tâm hồn, chúng đang muốn điều gì thế? Đến lúc này, một điều bất ngờ nhất đã xảy ra. Tôi muốn chọn một đối tượng để rải từ tâm, nhưng lại không thể nghĩ ra ai. Thế là tôi chuyển đối tượng thành chính mình. Tôi thử trải lòng với chính bản thân mình. Khi nhìn lại thật sâu thâm tâm tôi, tôi mới thực sự cảm nhận được tại sao hình ảnh của những người đã từng gây tổn thương cho mình lại hiện lên quá chi tiết như vậy. Điều mà tôi nhận ra là bản thân mình trước giờ chưa bao giờ tha thứ cho ai. Khi đó, tôi mới hay rằng suốt thời gian qua, mình đã lừa dối chính bản thân mình. Tâm mình còn sân lắm, còn chấp thủ lắm, và mình thực ra chưa thể buông bỏ chấp niệm. Đây là phát hiện thứ hai tôi nhận ra nơi tâm mình ngay tại giây phút tọa thiền ấy. Bỗng dưng, tôi cảm thấy biết ơn vô cùng. Thầm cảm ơn mọi nhân duyên hôm nay, biết ơn nhất vẫn là Sư cô giáo thọ, người đã tạo nhân duyên cho tôi và các bạn trong lớp, giúp chúng tôi trải nghiệm một ngày tu tập hết sức ý nghĩa. Bên cạnh đó, còn biết ơn thầy Hiệu trưởng đã trợ duyên phương tiện để lớp chúng tôi được thuận lợi và an toàn đến thực hành tại Trung tâm. Thương lắm những quý cô phật tử đã dành một ngày ân cần chăm sóc vật thực cho tôi và toàn thể đại chúng. Những món ăn được bày biện rất đầy đủ, chu đáo. Sau khi thọ thực xong, chúng tôi được nghỉ trưa. Đầu giờ chiều, khoảng 13h30p, chúng tôi tập trung để tiếp tục ngồi thiền, kinh hành, và nhiều hoạt động khác. Tất cả lặp lại giống như buổi sáng. Khoảng 16h, lớp chúng tôi được nghe bài pháp của thầy Hiệu trưởng và Pháp đàm cùng sư cô giáo thọ. Thầy và cô đã tận tình chia sẻ những kiến thức mà thầy cô kinh nghiệm được cho chúng tôi nghe. Những kiến thức mà chúng tôi chưa biết, hay những thắc mắc trong việc tọa thiền, chúng tôi đều được thầy và sư giáo thọ giải thích tận tình. Sau thời pháp đàm, cứ ngỡ là sẽ được về, nhưng Thầy và quý Phật tử lại tiếp tục thiết đãi chúng tôi bữa ăn nhẹ buổi chiều trước khi lên xe trở về. Suốt quãng đường về, trên khuôn mặt chúng tôi, ai nấy cũng nở nụ cười an lạc sau chuyến đi đó. Một ngày tu trải nghiệm của tôi đã đi qua như thế đó - một kỷ niệm khó quên. Mục đích của quán tâm trên tâm là nhằm thấy rõ tính duyên sanh, vô thường, vô ngã của các pháp hữu vi. Nó biểu hiện trong mọi tâm thức, chúng chỉ là các hiện tượng chuyển biến sanh diệt, không phải là thường hằng, thường trụ, có thực, đáng được xem hoặc đồng hóa là 'tâm tôi', là 'suy nghĩ của tôi'. Đức Phật cũng từng dạy rằng: 'Một khi chỉ một thoáng tâm sân hận khởi lên mà chúng ta không kiềm chế khắc phục được, thì lập tức muôn ngàn đau khổ tiếp nối theo sau'. Chúng ta cũng thường hay cho rằng thân và tâm thì rất quan trọng, nhưng ngược lại đối với Đức Phật thì lại khác. Ngài cho rằng: 'Nghiệp và ý thì mới quan trọng, khi ý suy nghĩ, miệng nói năng thì thân mới hành động'. Cho nên, Đức Phật nói “Ý dẫn đầu các pháp, chính tâm ý tạo tác nên duyên hành mà khiến cho chúng sanh tạo nghiệp sai khác.” Nếu muốn chế ngự tâm ý, trước hết chúng ta cần thực hành chánh niệm để quán chiếu những vọng động nơi tâm, làm lắng xuống những vọng động kia và khi đủ duyên cần dứt trừ các phiền não, lậu hoặc. Nhờ đó, tâm sẽ được an nhiên tự tại. Cùng với các Ba-la-mật vun bồi, sự nỗ lực công phu tu tập tới một lúc nào đó sẽ thánh nhập đạo-quả Vô thượng bồ đề, tức Niết bàn vị lai. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Tác giả: Tuệ Quang
Ni sinh TC Phật học Tiền Giang Biên tập và hiệu đính: QH. Thiền Tứ Niệm Xứ là thiền của Phật giáo và được mọi người biết đến với các tên khác như thiền minh sát tuệ, thiền quán hay vipassana. Đây là pháp môn được Đức Phật thực hành trước đó. Tọa thiền liên tục sau 49 ngày đêm, ngài nhập quả vị A La Hán Chánh Đẳng Giác. Từ đó cho thấy vị giáo chủ của chúng ta giác ngộ qua việc thực hành thiền chứ không phải một pháp môn nào khác cũng không phải thiền của ngoại đạo. Mục đích chúng ta theo đạo Phật là học Phật để giác ngộ, vậy thực hành thiền Tứ Niệm Xứ như thế nào để được giác ngộ giải thoát như Ngài thì đó là vấn đề chúng ta cần phải quan tâm và chú ý tới. Tứ Niệm Xứ là phương pháp tu tập quán niệm quan trọng của Phật giáo được Đức Phật nhấn mạnh, và là một trong những giáo lí căn bản của đạo đế. Theo danh từ Phật học Tâm Tuệ Hỷ, trang 535, định nghĩa về Tứ Niệm Xứ như sau: "Tứ là bốn, Niệm (S: smrti P: sati) là phát khởi ý thức, là để tâm tới. Niệm là nhớ tới, chú tâm theo dõi, để ý không xao lãng, quán niệm. Xứ là nơi chốn, đối tượng hay lĩnh vực. Xứ (S: upasthana. P: upatthana) cũng có nghĩa là ở lại, an trú, duy trì sự có mặt của mình [...] Tứ Niệm Xứ là bốn lĩnh vực mà hành giả phải quán niệm, duy trì sự có mặt trong đó, trụ tâm vào đó để quán chiếu, nhận ra thực tánh của nó. Còn gọi là Bốn Niệm trú, tức là duy trì Chánh niệm trên bốn nhóm đối tượng, để quán thấy rõ hành tướng của chúng". Bốn nhóm đối tượng quán sát đó là: quán niệm thân thể ở nơi thân thể, quán niệm cảm thọ ở nơi cảm thọ, quán niệm tâm thức ở nơi tâm thức và quán niệm đối tượng tâm thức (Pháp) ở nơi đối tượng tâm thức. Trong quá trình hành thiền này, mục đích là duy trì chánh niệm trên bốn lĩnh vực thân, thọ, tâm và pháp, giúp loại bỏ năm triền cái và phát triển thất giác chi. Đây là lối thiền tập để nhìn rõ thực tại diễn ra như chính nó đang là. Điều quan trọng khi thực hành Tứ Niệm Xứ là: tinh tấn, tỉnh giác hoàn toàn, để chế ngự mọi tham luyến thế gian. Hành giả tu tập Tứ Niệm Xứ không nên khởi tâm chấp vào đối tượng mà chỉ thấy biết và hướng đến cái thấy biết chân chính. Phương pháp quán chiếu này được nói rõ trong Kinh Đại Niệm Xứ và Đức Phật từng nói rằng, pháp này có thể đưa đến Niết-bàn. “Này các Tỷ kheo, đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh lý, chứng ngộ Niết bàn. Đó là Bốn niệm xứ. Thế nào là bốn? Này các Tỷ kheo, ở đây vị Tỷ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời." (Đức Phật, từ Trường Bộ Kinh số 22, Kinh Đại Niệm Xứ.) Qua những lần được Sư hướng dẫn hành thiền cùng đại chúng, con đã được thực hành thiền rải tâm từ, quán tử thi, thiền đi và thiền quán thân thể nơi thân thể qua việc thực tập quán hơi thở. Có lẽ, dùng thuật ngữ Phật học hơi khó hiểu nhưng có thể hiểu nôm na rằng, thực tập quán hơi thở là sự theo dõi hơi vào, hơi ra của hơi thở, bởi thân con lúc này đây đã ngồi yên, chỉ có hơi thở, sự phồng xẹp của bụng là chuyển động. Một hơi thở đi ra là biết hơi đi ra, hơi thở vào thì biết hơi thở vào... cứ thực hành thấy biết như vậy. Con tưởng chừng mọi thứ sẽ rất dễ vì ai mà chẳng thở, trước giờ mình cũng vẫn thở đó thôi, có gì đâu mà khó mà phải thực hành, nhưng cho tới khi thực hành con mới biết: đó giờ mình thở mà không biết mình đang thở, mình thở sai mà không biết mình đã thở sai. Thở ra bụng phải xẹp, hít vào bụng phải phình căng lên. Nhưng không! Đó giờ con đã làm ngược lại và thế là sai cách thở. Trước con vẫn thở nhưng lại không hề biết mình đang thở, chỉ khi con làm mệt, chạy hay mất sức nhiều, cần thở mạnh con mới phát hiện ra rằng con đang thở hồng hộc một cách thô tháo. Trong buổi thực tập thiền quán thân trên thân qua hơi thở, lúc đầu, có sự tác ý của con vào hơi thở đầy sự gượng ép và rất nặng nề. Con hít một hơi sâu, bụng không căng được nữa, nín lại một giây rồi thở ra từ từ cho tới khi bụng xẹp. Cứ như vậy, chỉ được vài hơi vào ra là con đã mệt. Con thực tập lại, lần này con tập thở vào ra một cách tự nhiên nhất và con để ý thấy, hơi hít vào sâu hơn hơi thở ra, con không còn thấy mệt, mất sức như lần trước đó. Con cảm nhận nơi đầu lỗ mũi, các lông mũi rung lên, một cảm giác nóng nhẹ ở đầu mũi khi hơi thở đi ra và hơi lạnh khi hơi thở vô. Thực tập hít thở vào con thầm cảm ơn thiên nhiên đã cho con nguồn không khí này, dừng lại hai giây con thở ra, hãy đi ra nào những tế bào bệnh tật, những năng lượng tiêu cực kia! Con thực tập và chú tâm sự vào ra của nó. Cảm nhận hơi đi vào phổi, tới cơ hoành, tới bụng thắt lại ở bụng rồi ngược lại, hơi đi từ bụng ra tới đầu mũi. Thực tập được một lúc, cảm nhận lúc này đã yên rồi đấy! Nhưng không! Cái gì khiến con mất đi sự chú tâm vào hơi thở thế này nhỉ? Đó là cái chân của con, nó đang cho con cảm giác tê tê, vùng tê bắt đầu lan ra từ bàn chân lên tới bắp thịt. Con nhúc nhích chỉnh lại để tìm cảm giác dễ chịu. Con cũng không còn chú ý tới hơi thở nữa, sự chú ý của con dồn vào cái chân bị tê. Nó tê và trong đầu con khởi lên ý nghĩ rằng hay là mình duỗi chân ra nhỉ? Không! Như vậy thì bao giờ mình mới ngồi được? Chẳng lẽ cứ đau một tí là lại đổi sao? Tê mỗi lúc càng nhiều rồi chuyển sang đau chân, nhức nhối và buốt. Con quyết định chuyển tư thế, con ngồi lại cảm giác đau vẫn còn. Con chợt nhớ ra mình từng bắt gặp đâu đó một câu nói rằng khi ngồi thiền mà bị tê là do ta thở không đúng cách nên máu không đưa ô xi tới vùng nào thì vùng đó sẽ gặp vấn đề. Con quyết định tập ngồi lại, chú tâm vào hơi thở. Lúc đầu còn hơi khó khăn vì cảm giác đau vẫn còn, con tác ý vào hơi thở theo dõi nó. Hơi thở vào ngắn biết hơi thở vào ngắn, hơi ra ngắn biết hơi đi ra ngắn, từ từ cảm giác đau ở chân cũng biến mất từ lúc nào không hay. Con cố gắng duy trì hơi thở đều và nhận diện nó lúc đi vào bên trong cơ thể, rồi cả khi đi ra ngoài. Boong! Tiếng chuông vang lên báo hiệu hết giờ ngồi thiền, nhỏ dần nhỏ dần chìm vào trong không gian... Vào một lần khác, Sư hướng dẫn con cùng đại chúng thực hành thiền đi. Trở lại thời gian đầu khi con bước chân vô chùa, một hôm thầy hỏi con: “Đang nghĩ gì thế?” Con giật mình bừng tỉnh nhìn thầy, chưa kịp để con trả lời, thầy nói: "Vọng tưởng phải không?" Con dạ một câu nhẹ cúi đầu. Kì thật lúc đó con đã nghĩ những chuyện lát nữa làm, giá như ngày hôm qua được ăn món canh chua thì ngon biết mấy, thèm quá... nhưng sao thầy biết nhỉ? Rồi thầy dạy con khi đi, đứng, nằm, ngồi phải có chánh niệm. Lúc đi thì áp dụng: chân phải chữ 'Di, Phật' chân trái chữ 'A, Đà'. Không phải ngẫu nhiên thầy dạy con như vậy. Là do con hậu đậu, vụng về hay làm bể đồ, thầy nói trước con quên sau... nên bữa đó thầy đã dạy con thực tập chánh niệm trong lúc làm việc. Khi được Sư hướng dẫn con nghĩ có lẽ con sẽ đi như cách thầy con chỉ. Ồ! Không nhé! Thiền đi không phải như cách con hiểu. Sau khi xem video Sư mở lên cho cả lớp, con mới biết thiền đi là như sư cô Nam tông trong video đã đi. Tới khi thực hành thiền, đi xung quanh chánh điện, con đã đi và quan sát đôi chân con. Lúc này con không thể chú tâm hoàn toàn vào hơi thở, con cảm nhận đôi chân con bước đi. Một chân nhấc lên hướng về phía trước khi vừa chạm đất, để giữ cân bằng chân còn lại con tác ý nhấc lên. Con cảm nhận sự co duỗi của hai chân, sự tiếp xúc của bàn chân với nền nhà, khi đi qua chỗ mát chỗ nắng, con quan sát mặt đất có sự trở ngại gì không, có con vật nhỏ bé nào không để tránh né. Thực tập được vài vòng con bắt đầu thấy mỏi lưng, việc nhìn xuống đất cũng khiến con mỏi cổ. Không biết theo quán tính, thất niệm hay do nhức mỏi mà con lại về với cách đi của thầy dạy, con đã thực hành bao năm nay. Con lại đi theo câu A Di Đà Phật được một vòng, con nhận ra mình có vọng tưởng, con đã nghe tiếng kêu ọt ọt của bụng, nó đang đói. Phải rồi hồi trưa con ăn ít. Con nghĩ xem tí học về ăn gì, thèm quả gì chua chua chấm muối ăn quá... con nhận ra khi con đã đi cả một vòng thực tập không có chánh niệm. Con dậm chân thật mạnh xuống nền nhà và đưa mình trở về với đôi chân đang đi bắt đầu lại từ đầu. Vào một ngày con nhận phiên nhà giảng, cầm ca đi tưới nước. Trong khuôn viên chùa có vài chậu cảnh đang độ ra bông. Con đứng lại nhìn một bông hoa: Tác giả: Viên Hải,
Ni sinh TC Phật học Tiền Giang Biên tập & ảnh: QH. Trong thế giới đầy căng thẳng ngày nay, sức khỏe tâm thần đã trở thành một vấn đề cấp bách. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, cứ 1 trong 7 thanh thiếu niên toàn cầu đang mắc các rối loạn sức khỏe tâm thần, trong khi hàng năm có 700.000 người trong độ tuổi từ 15 đến 29 tử vong vì tự tử, khiến tự tử trở thành nguyên nhân gây tử vong hàng đầu đứng thứ 4 trong nhóm tuổi này (WHO, 2022[1]). Gánh nặng của bệnh tâm thần trải rộng qua một loạt các rối loạn, bao gồm rối loạn tâm thần lưỡng cực, lo âu, sử dụng chất gây nghiện, rối loạn hành vi và phát triển, tâm thần phân liệt và khuyết tật trí tuệ (AIHW, 2011[2]). Đối mặt với cuộc khủng hoảng sức khỏe ngày càng tăng này, đã có một sự quan tâm mới đến các tiếp cận dựa trên Chánh niệm trong những thập kỷ qua, đặc biệt là ở các nước phương Tây. Một trong những người tiên phong trong việc tích hợp Chánh niệm vào các trị liệu lâm sàng là Jon Kabat-Zinn, người đã xây dựng chương trình 'Giảm thiểu căng thẳng dựa trên Chánh niệm' (MBSR) vào năm 1979, với trọng tâm là thực hành thiền chánh niệm và thiền tâm từ (Kabat-Zinn, 2003[3]). Công việc của Kabat-Zinn đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc đưa sự thực hành phương Đông mang ảnh hưởng của tôn giáo vào các đối tượng thử nghiệm lâm sàng và tâm lý trị liệu phương Tây, mở ra cánh cửa mới cho cách thức chữa lành và tự phục hồi. Thiền Chánh niệm, có nguồn gốc từ sự thực hành cổ xưa của đạo Phật từ cách đây 2.600 năm, được hiểu rõ bởi những hành giả thực hành vipassanā tức tu tập thiền quán. Thuật ngữ "thiền Phật giáo" liên quan chặt chẽ đến mục đích cuối cùng là Niết bàn (Sanskrit: निर्वाण, nirvāṇa; Pali: nibbāna), đại diện cho sự tự do tuyệt đối khỏi mọi ngọn nguồn khổ đau thông qua sự thực hành truyền thống được mô tả chi tiết trong bản kinh nổi tiếng the Satipatṭhāna sutta - Bốn nền tảng thiết lập Chánh niệm trong tạng Kinh cổ ngữ Pali (Pāli Nikāya[4]). Do vậy, trọng tâm của các can thiệp trên nền tảng Chánh niệm[5] đương đại nằm ở sức mạnh của việc trau dồi sự hay biết và hiện diện trong khoảnh khắc hiện tại. Chánh niệm không chỉ liên quan tới việc chú tâm đến các suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta, mà còn hòa nhịp lắng nghe các cảm giác thể chất, hơi thở và môi trường xung quanh. Chánh niệm khuyến khích chúng ta thiết lập sự kết nối sâu sắc với bản thân, với mọi người và với thế giới xung quanh, nuôi dưỡng cảm giác kết nối tương hỗ và lòng trắc ẩn. Đó là sự trải nghiệm và ghi nhận khoảnh khắc hiện tại một cách trọn vẹn, thay vì bị lạc dòng tư tưởng bởi những lo lắng về quá khứ hoặc tương lai. Một trong những khía cạnh độc đáo của các can thiệp chánh niệm là hướng tiếp cận toàn diện trong trị liệu, bao gồm tâm trí, thân thể và tinh thần. Chánh niệm mời gọi chúng ta phát triển một mối quan hệ đầy cảm thông với chính mình và thế giới xung quanh, để sống đúng mục đích và thiện ý. Thông qua việc thực hành thường xuyên liên tục, hành giả thấy được sự tiến bộ về nhận thức bản thân và kiểm soát cảm xúc tốt hơn, giảm thiểu căng thẳng, cải thiện chức năng nhận thức, cải thiện mối quan hệ, nuôi dưỡng khả năng tự phục hồi và sự bình an nội tâm. Theo đó, các thử nghiệm với can thiệp chánh niệm đã được chứng minh là có tác động sâu sắc đến sức khỏe tâm lý và hạnh phúc thân-tâm mà không yêu cầu chẩn đoán cụ thể về trạng thái tâm thần. Hơn nữa, các can thiệp dựa trên chánh niệm hiện nay, gọi tắt là liệu pháp chánh niệm hay can thiệp chánh niệm, đã được ứng dụng hiệu quả trong việc điều trị khá nhiều các biến chứng tâm thần, bao gồm lo âu, trầm cảm, mất ngủ, rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD), nghiện và rối loạn ăn uống. Với những phiền muộn và căng thẳng không ngừng trong nhịp sống hiện đại ngày nay, những khoảnh khắc an yên dần trở nên quý hiếm và trở thành một xu thế tìm kiếm. Chúng ta thường thấy bản thân lạc lối trong sự hỗn loạn của dòng suy tư, lo lắng và trách nhiệm; quên đi việc sống trọn vẹn trong từng khoảnh khắc hiện tại. Tuy nhiên, giữa bối cảnh hỗn loạn đó tồn tại một phương thức giản đơn nhưng vô cùng mạnh mẽ, có thể mang chúng ta trở lại khám phá chân lý cuộc sống - đó là thực hành Chánh niệm. [1] World Health Organization 2022, Mental health, World Health Organization, online webpage, viewed 2 April 2023, https://www.who.int/features/factfiles/mental_health/en/
[2] AIHW 2011, Impact and causes of illness and death in Australia 2011, Australian Burden of Disease Study series, Number 3 [3] Kabat-Zinn, J. (2003). Mindfulness-based stress reduction (MBSR). Constructivism in the Human Sciences, 8(2), 73–107. [4] Bản kinh gốc Pāli này có một vài dị bản tương ưng có thể tìm tham khảo trong bộ A-hàm Hán tạng như MA 98, MA 31, v.v. [5] mindfulness-based interventions (MBIs) Quý vị thân mến! Trong những bài viết trước, chúng tôi đã cố gắng nêu ra những kiến thức mang tính học thuật về các Liệu pháp Thiền hay Tâm lý trị liệu, nhấn mạnh vào nền tảng Thiền Phật giáo (gọi tắt là Thiền Trị liệu) trong việc ứng dụng một liệu pháp tâm lý cho các tổn thương tinh thần và cảm xúc cá nhân giữa những khủng hoảng toàn cầu thời đương đại. Trong bài viết này, người thực hiện giao lưu cùng ChatGPT - một AI chatbox mới xuất hiện gần đây và vô cùng thú vị. Câu hỏi đưa ra bằng tiếng Việt, liên quan đến Liệu pháp Thiền Chánh niệm, cũng như việc nên hay không nên thực tập liệu pháp này cho từng đối tượng(*). Dưới đây là góc nhìn thuần túy của ChatGPT dựa trên những kho dữ liệu online khổng lồ. Một lần nữa, người thực hiện khuyến khích bạn đọc tham khảo, nhưng cũng cần thêm khảo nghiệm và đánh giá chuyên gia trước khi hoàn toàn đặt sự tin cậy vào nguồn dữ liệu thông minh này. Mến chúc bạn đọc có những phút giây nghiền ngẫm hữu ích! Chat GPT: Có nhiều trường hợp mà việc tham vấn tâm lý có thể hữu ích, bao gồm:
Phương pháp thiền và các liệu pháp tâm lý khác có nhiều điểm tương đồng như chú trọng đến tâm trí và cảm xúc, và đều được sử dụng để giải quyết các vấn đề tâm lý. Tuy nhiên, có những khác biệt chính giữa phương pháp thiền và các liệu pháp tâm lý khác như sau:
Mặc dù liệu pháp thiền có nhiều lợi ích cho tâm trí và cơ thể, nhưng không phải ai cũng phù hợp để thực hiện nó. Dưới đây là một số trường hợp khi không nên áp dụng liệu pháp thiền:
Liệu pháp chánh niệm là một phương pháp thiền tập trung vào việc giữ cho suy nghĩ của bạn luôn tập trung vào hiện tại và không bị lạc đề. Dưới đây là một số trường hợp khi không nên áp dụng liệu pháp chánh niệm:
ChatGPT: Bạn có thể gọi tôi là ChatGPT nhé. Người thực hiện: Quang Hằng (*) Nội dung trả lời của ChatGPT có hiệu đính nhẹ để giúp thông tin đưa tới bạn đọc tốt hơn. Theo khảo cứu sơ bộ, các dữ liệu được trích dẫn bởi báo địa phương và UNICEF Việt Nam đóng vai trò như một lời cảnh tỉnh cho chính phủ và xã hội Việt Nam nói chung để ưu tiên và đầu tư vào các nguồn lực và hệ thống hỗ trợ về sức khỏe tinh thần. Bài báo gần đây được đăng tải online trên một tờ báo địa phương tại Việt Nam đã đưa ra những lo ngại nghiêm trọng về tình trạng sức khỏe tâm thần trong nước. Những con số được thu thập từ Khoa Tâm thần của Bệnh viện Bạch Mai đã cho thấy rằng khoảng 30% dân số Việt Nam[1] đã từng trải qua ít nhất một rối loạn tâm thần trong suốt cuộc đời của họ. Càng đáng lo ngại hơn, một nửa số người bị ảnh hưởng đã tìm kiếm những phương thức trị liệu cho các vấn đề tâm lý (Le, 2022)[2]. Ngoài ra, UNICEF Việt Nam (2018) cũng đã triển khai một nghiên cứu trên diện rộng về sức khỏe tinh thần và tình trạng tâm lý của trẻ em và thanh niên trong nước[3]. Nghiên cứu này cho thấy rằng từ 8% đến 29% dân số trẻ Việt Nam đang gặp phải vấn đề sức khỏe tâm thần. Trước đây trong truyền thống Phật giáo, giới tu sĩ thường được biết đến với lối sống ẩn cư và tu tập như một kỷ luật tôn giáo. Tuy nhiên, thời nay, việc thực hành tu tập trong Phật giáo đã chuyển dịch sang cách tiếp cận sứ mệnh hóa, bao gồm việc nghiên cứu kinh điển, truyền bá các giáo lý Phật giáo và tham gia các hoạt động xã hội (Schedneck, 2021)[4]. Việc sử dụng thiền chánh niệm (mindfulness meditation) như một cách thức giúp giảm bớt khổ đau tinh thần và thúc đẩy sức khỏe tâm lý trong xã hội hiện đại không hoàn toàn giống với Tự do Niết Bàn, nói cách khác là sự tận diệt khổ đau của con người, mà giới tu sĩ Phật giáo đã hành trì xuyên suốt 2,600 năm kể từ khi Đức Phật Gotama chứng ngộ và chỉ dẫn lộ đạo cho hàng cư sĩ và đệ tử. Ngày nay, sự quan tâm đến lợi ích của thiền chánh niệm đã tăng lên đáng kể, cả trong lĩnh vực học thuật và tâm lý lâm sàng trong vài thập kỷ gần đây (Germer et al. 2005; Tirch et al. 2016; Gold & Zahm 2018)[5]. Sự phổ biến của thiền chánh niệm hiện đại đã trở thành một xu hướng gia tăng từ các quốc gia phương Tây về lại phương Đông, đặc biệt là trong bối cảnh các xung đột và khủng hoảng toàn cầu, khi mọi người tìm nhiều cách để vượt qua các bất ổn tinh thần cá nhân và cải thiện hiện trạng tâm lý của mình. Ở các nước chịu ảnh hưởng của Phật giáo như Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam, thiền chánh niệm đã trở thành một phong trào thế tục được đông đảo cư sĩ ủng hộ. Sự chuyển đổi từ thực hành tôn giáo truyền thống sang các hình thức tu tập chánh niệm thế tục đang là lời giải cho những đòi hỏi phức tạp và nhu cầu đổi thay tất yếu của xã hội hiện đại. Khác với các xã hội truyền thống hoặc cổ xưa, nơi mà sự thực hành văn hóa và tín ngưỡng có thể thường được nhìn nhận mang tính tập thể và tôn giáo, các xã hội hiện đại ngày nay được đặc trưng bởi lối sống vội, những chuẩn mực văn hóa không ngừng thay đổi, những tiến bộ công nghệ AI và sự thể hiện cá nhân đậm nét. Việc chú trọng đặc biệt đến thực hành chánh niệm được minh chứng là một phương thức để mọi cá nhân trong các xã hội đô thị giải quyết những vấn đề tâm lý cũng như hướng đến sự cân bằng, hòa bình và ý nghĩa của cuộc sống. Quang Hằng --- [1] Tới 2023, dân số Việt Nam ước tính khoảng 100 triệu người. Dữ liệu trích xuất 15/02/2023, https://www.worldometers.info/world-population/vietnam-population/ [2] Le Duy, 2022. “We are not paying enough mind to mental illnesses”. Perspectives. VNExpress International. Retrieved on 15 Feb 2023, https://e.vnexpress.net/news/perspectives/we-are-not-paying-enough-mind-to-mental-illnesses-4428398.html [3] Nghiên cứu này thực hiện khảo sát dân số trẻ của đại diện 10 trên 63 tỉnh thành Việt Nam. Dữ liệu trích xuất 16/02/2023, https://www.unicef.org/vietnam/reports/mental-health-and-psychosocial-wellbeing-among-children-and-young-people-viet-nam [4] Dữ liệu trích xuất 15/02/2023 https://doi.org/10.1093/acrefore/9780199340378.013.875 [5] Sách tham khảo Instant coffee - you drink it every day. Instant noodles - you eat them always. Today, let's try out 'instant mindfulness'. This succinct modality is neither an early traditional mindfulness practice, nor the endmost Buddhist method - yet it's worth trying. -- Joticandā
Chỉ trong vài năm trở lại đây, chúng ta đã đang phải đối mặt với những tình huống bất ổn toàn cầu như vụ đánh bom ở Sri Lanka, các cuộc biểu tình ở Hồng Kông, dịch bệnh Coronavirus trên toàn thế giới, chiến tranh Nga-Ukraine và sự gia tăng căng thẳng nội các Trung Quốc-Đài Loan. Đáng chú ý là hầu như tất cả các quốc gia đều bị ảnh hưởng tài chính sau hệ lụy của bệnh dịch Covid-19. Tiếp cận tình huống này, bài báo của Fouts đăng trên tạp chí Forbe (2020)[1] nêu ra giải pháp ổn định nền kinh tế bằng các phương pháp thực hành chánh niệm. Với tư cách là một huấn luyện viên giúp đỡ tâm lý khách hàng giữa cuộc khủng hoảng toàn cầu, bà mô tả về thực trạng cuộc sống bị đe dọa và những lo lắng về sự mất mát đến với cuộc sống của mọi người. Bà đã hướng dẫn khách hàng một phương pháp thực hành tĩnh tâm đi song hành với kỹ thuật chánh niệm để tách bản thân khỏi những sự xáo trộn trong đời sống hằng ngày. Trong một cuộc phỏng vấn khác, Boyce (2011)[2] tập trung vào khả năng chữa lành tâm thức của chánh niệm và thảo luận với các chuyên gia nổi tiếng như Jon Kabat-Zinn, Daniel Siegel và Susan Bauer-Wu - những người đã thực hành và giảng dạy chánh niệm ở phương Tây trong nhiều năm. Vai trò quan trọng của chánh niệm có thể giúp ngăn ngừa “căng thẳng, chẩn đoán sớm và đưa ra các lựa chọn lối sống lành mạnh” - Bauer-Wu nói. Ngoài ra, Daniel Siegel nói thêm rằng “lối sống tỉnh thức sẽ hỗ trợ một tâm trí lành mạnh và các mối quan hệ thấu cảm hơn”. Jon Kabat-Zinn sau đó đã nhận định “sự phá vỡ” của hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện nay ở Mỹ do nguyên nhân thực tế là chúng ta “đòi hỏi sự tham gia nhiều hơn từ những người đang chịu đựng những nỗi đau tinh thần”. Điều thú vị là, chánh niệm - một kỹ thuật được Jon Kabat-Zinn đưa vào các bệnh viện Hoa Kỳ từ những năm 1990s - “không phải là hoàn toàn tĩnh lặng và bình yên”. Đúng hơn, sự thực hành chánh niệm “mở ra những suy nghĩ đen tối và khó chịu”. Daniel Siegel giải thích tiến trình tâm này bằng khái niệm về vùng vô thức chứa đựng những trạng thái tâm thức tiêu cực (như là sợ hãi, tức giận, lừa dối, buồn bã), chúng sẽ xuất hiện trở lại trên bề mặt của vùng ý thức trong khi thực hành chánh niệm. Khi đó những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực được ghi nhận, được hòa giải và được chuyển hóa trong tâm trí. Những bệnh nhân trầm cảm có lợi lạc nhiều nhất khi tự mình đối mặt với quãng phần xấu xí bên trong nội tâm để từ đó thay đổi thực tại sống của họ. Quá trình chữa bệnh này, như Kabat-Zinn đã lưu ý, đưa đến sự thấu tỏ, trí tuệ và sáng suốt. Đối với vấn đề này, Bauer-Wu không thể đồng ý hơn bằng việc nhấn mạnh vào cái nhìn sâu sắc nhờ chánh niệm tỉnh thức để giải quyết những trạng thái nội tâm bất ổn của thân-tâm. Tóm lại, thu thập các ý kiến chuyên gia trong bài viết rất ngắn gọn này chứng minh lợi ích của sự thực hành chánh niệm trong bối cảnh của xung đột toàn cầu và những hệ lụy (về nội tâm) mà mỗi cá nhân đang phải xử lý. Cách thức chúng ta thực hành chánh niệm mỗi ngày và cách thức chúng ta đi đến tuệ quán phụ thuộc vào hành trình và nỗ lực riêng mỗi cá nhân. Mặc dù chánh niệm ứng dụng có thể giúp chữa lành một vài trạng thái tinh thần tiêu cực, nhưng hành giả cũng có thể lựa chọn chấm dứt hoàn toàn sự khổ đau bằng sự vun bồi 10 ba la mật. Đây là một chủ đề khác dành riêng cho các đệ tử Phật – những người đang tìm kiếm sự giải thoát vĩnh hằng. Giáo lý Đạo Phật sâu rộng, và hầu hết dành cho những ai khao khát muốn dứt bỏ sự khổ của sanh tử luân hồi. Dẫu vậy, thiền ứng dụng hay việc tu tập áp dụng sự thực hành Chánh niệm trong Phật giáo hướng đến sự bình an trong tâm thức, giữa thế cuộc của những bất ổn toàn cầu như hiện nay, mang lại giá trị thiện lành cho tất cả chúng hữu tình. Nguyện cho chúng hữu tình được an vui và hạnh phúc! Quang Hằng. Chánh Niệm chữa lành những hệ lụy sau khủng hoảng toàn cầu |
Quang HằngVới sự hứng thú trong Thiền, Phật học ứng dụng, và Sức khỏe tâm lý, các bài viết được góp nhặt và đăng tải với hy vọng giúp Đạo hữu và cư sĩ hiểu hơn về lợi ích của Thiền trong Tâm lý trị liệu. Archives
April 2024
Categories
All
|