|
THIỀN TRỊ LIỆU | Tâm lý trị liệu trên nền tảng Thiền Phật giáo
KHI CÓ CHÁNH KIẾN VÀ CHÁNH NIỆM ĐỦ MẠNH<< tiếp phần 1 *** Nếu nhìn vọng tưởng xuất phát từ vô minh (moha) là một bản năng bất thiện, thì chỉ khi MINH hay Chánh Kiến khởi lên, các hành (saṅkhāra) mới trở thành hành thiện và đưa đến thiện nghiệp (kusala kamma). Chính điều này đã thay đổi bản năng bất thiện vốn tồn tại bao năm nơi tâm chúng tôi. Tâm lý học và tâm lý trị liệu ngày nay khi đi tìm những phương thuốc chữa trị các căn bệnh về tinh thần, stress và các chấn thương tâm lý lại nghiên cứu, áp dụng Chánh Niệm từ Đạo Phật. Có một điều khác là sự áp dụng này còn mang tính thực dụng và bề nổi. Theo một góc nhìn phê phán của những học giả Phật học thuần túy, sự áp dụng bề mặt thiếu kiểm soát [bệnh nhân] trên phương diện Đạo đức và thiếu đi sự giảng dạy về Giáo pháp thuần túy khiến cho việc điều trị mang tính chất tạm thời. Ở một góc nhìn phản biện, TS Eng-kong Tan (2016)[i] - một nhà tâm lý học trị liệu với hơn 30 năm kinh nghiệm - chia sẻ rằng khi những khách hàng của ông sau quá trình điều trị (có thể vài năm) chợt nhận ra, và thay đổi hành động theo phương châm đạo đức, là lúc ông cảm thấy cả mình và khách hàng đã thành công trên lộ trình trị liệu tâm lý. “Cha đẻ” của MBSR, John Kabat-Zinn - người rất thành công khi đưa lộ trình 8 tuần trị liệu dựa trên nền tảng chánh niệm vào các bệnh viện và trường học tại Mỹ từ năm 1979 - cũng đồng thuận với phản biện về Đạo đức và Giáo pháp trên nền tảng [mâu thuẫn các quan điểm] tôn giáo nếu chúng được đưa vào lộ trình trị liệu. Tuy vậy ông nhận định rằng Đạo đức nên chăng là vấn đề ngầm định trong các trị liệu hiện đại với MBIs – các ngăn chặn trên nền tảng chánh niệm (Kabat-Zinn 2011)[ii]. Trên phương diện cá nhân, chúng tôi hướng đến Đạo đức được hình thành trên nền tảng 5 giới cơ bản của một Phật tử thuần thành: (1) Không sát sanh, (2) Không nói sai sự thật, (3) Không thông dâm, (4) Không lấy của không cho và (5) Không uống rượu và các chất say. Việc giữ các giới này không khẳng định rằng một cá nhân theo Đạo Phật hay một tôn giáo cụ thể, nhưng chúng là tiền đề cho sức mạnh của Chánh Niệm. ‘Niệm’ được hiểu là sự nhớ nghĩ, hay biết. Chánh niệm và thiền quán được dạy bởi Đức Gautama nhấn mạnh tới hai ý nghĩa: (1) hiện tại hiện tiền (S 47.2)[iii] và (2) sự vô thường của các pháp hữu vi (S 47.35)[iv]. Nếu một hành giả có tâm ý bất thiện, thì khi hành thiền, các bất thiện nghiệp khởi lên. Chúng là rào cản của chánh định và cũng là căn nguyên của những bất an tinh thần. Ngược lại, một hành giả có tác ý giữ giới và hành thiện, vị ấy rất tự nhiên vui sống với các hành thiện đó. Hỷ lạc phát sinh khi vị đó ngồi tĩnh lặng chiêm nghiệm. Với Giáo pháp cùng sự tu tập, khi căn duyên vừa đủ, MINH (tuệ quán) khởi lên giúp vị đó thấy rõ các pháp như nó vốn là. Chánh niệm là một trong 5 căn thức của 37 phẩm trợ Đạo (đưa đến giác ngộ), cũng chính là một trong 5 sức mạnh giúp một hành giả tinh tấn hành trì trên con đường giải thoát. Khi Chánh Niệm đủ mạnh, các bản năng thiện tự động sinh khởi mà không cần thêm một tác ý thay đổi nào. Nói theo một cách khác, cùng với Chánh Kiến và Chánh Tinh Tấn, hành giả ấy hay biết, ghi nhận sự vô thường của Danh và Sắc, có thể sống với thái độ an nhiên tự tại và áp dụng Đạo như một nghệ thuật sống để đối diện, ứng phó với những nghịch cảnh có thể xảy ra. BẢN NĂNG YÊU THƯƠNG Bản năng yêu thương được tích hợp trong nhu cầu tâm lý bậc 3 của tháp nhu cầu Maslow (1943). Tuy vậy, khi nhìn rộng ra muôn loài, bản năng yêu thương được hình thành ngay khi chúng có sự sống. Goran Anastasovski - một nhiếp ảnh gia đến từ Macedonia - đã dành hơn 12 năm lưu giữ lại những khoảnh khắc đầy yêu thương của các loài động vật trong tự nhiên[v]. Bản năng yêu thương trong Đạo Phật dùng hình tượng tình mẹ để thấy sự hy sinh trong tâm từ - tình yêu thương không vị kỷ (mettā or loving-kindness). Tâm từ ái, đồng nghĩa với sự vắng mặt của sân hận (abyāpādo), cũng chính là một trong 4 pháp nguyên sơ, không tạp nhiễm và trường tồn với thời gian (A 4.29)[vi]. Hơn lúc nào hết trong thế giới hiện tại này, bản năng yêu thương cho muôn loài nên được đánh thức và vun bồi trong tâm hồn trẻ nhỏ, để có thể tránh những lệch lạc của tâm lý khi trưởng thành (như trầm cảm, tự kỷ, cảm giác cô độc hay bị kỳ thị, v.v). Nếu như chúng ta chưa thể thực hành theo lời dạy của Đức Gautama với mục đích chấm dứt sự khổ (dukkha) trong luân hồi, thì cũng có thể học theo Đức chúa Giêsu gieo trồng một tình yêu thương hướng thượng. Và nếu như chưa thể buông bỏ sự sống, thì cũng có thể học cách yêu sự sống với tâm từ ái và hướng về vị Phật tương lai, Đức Metteyya[vii] - vị Bồ tát mang biểu tượng của tâm từ bi, hạnh phúc trong Đạo. Quang Hằng NSW, 03-10-2016. [i] Khóa học Healing traditions: Buddhism and Psychotherapy tại NTI (2016) [ii] https://drive.google.com/file/d/0B03M5lle_5i4czJici10SGlJaTA/view [iii] https://suttacentral.net/vn/sn47.2 [iv] https://suttacentral.net/pi/sn47.35 [v] http://thieunien.vn/67-vui-doc-la/19316-chum-anh-chung-minh-yeu-thuong-la-ban-nang-cua-muon-loai.html [vi] https://suttacentral.net/vn/an4.29 [vii] https://vi.wikipedia.org/wiki/Di-lặc |
Quang HằngVới sự hứng thú trong Thiền, Phật học ứng dụng, và Sức khỏe tâm lý, các bài viết được góp nhặt và đăng tải với hy vọng giúp Đạo hữu và cư sĩ hiểu hơn về lợi ích của Thiền trong Tâm lý trị liệu. Archives
April 2024
Categories
All
|