|
THIỀN TRỊ LIỆU | Tâm lý trị liệu trên nền tảng Thiền Phật giáo
Quý vị thân mến! Trong những bài viết trước, chúng tôi đã cố gắng nêu ra những kiến thức mang tính học thuật về các Liệu pháp Thiền hay Tâm lý trị liệu, nhấn mạnh vào nền tảng Thiền Phật giáo (gọi tắt là Thiền Trị liệu) trong việc ứng dụng một liệu pháp tâm lý cho các tổn thương tinh thần và cảm xúc cá nhân giữa những khủng hoảng toàn cầu thời đương đại. Trong bài viết này, người thực hiện giao lưu cùng ChatGPT - một AI chatbox mới xuất hiện gần đây và vô cùng thú vị. Câu hỏi đưa ra bằng tiếng Việt, liên quan đến Liệu pháp Thiền Chánh niệm, cũng như việc nên hay không nên thực tập liệu pháp này cho từng đối tượng(*). Dưới đây là góc nhìn thuần túy của ChatGPT dựa trên những kho dữ liệu online khổng lồ. Một lần nữa, người thực hiện khuyến khích bạn đọc tham khảo, nhưng cũng cần thêm khảo nghiệm và đánh giá chuyên gia trước khi hoàn toàn đặt sự tin cậy vào nguồn dữ liệu thông minh này. Mến chúc bạn đọc có những phút giây nghiền ngẫm hữu ích! Chat GPT: Có nhiều trường hợp mà việc tham vấn tâm lý có thể hữu ích, bao gồm:
Phương pháp thiền và các liệu pháp tâm lý khác có nhiều điểm tương đồng như chú trọng đến tâm trí và cảm xúc, và đều được sử dụng để giải quyết các vấn đề tâm lý. Tuy nhiên, có những khác biệt chính giữa phương pháp thiền và các liệu pháp tâm lý khác như sau:
Mặc dù liệu pháp thiền có nhiều lợi ích cho tâm trí và cơ thể, nhưng không phải ai cũng phù hợp để thực hiện nó. Dưới đây là một số trường hợp khi không nên áp dụng liệu pháp thiền:
Liệu pháp chánh niệm là một phương pháp thiền tập trung vào việc giữ cho suy nghĩ của bạn luôn tập trung vào hiện tại và không bị lạc đề. Dưới đây là một số trường hợp khi không nên áp dụng liệu pháp chánh niệm:
ChatGPT: Bạn có thể gọi tôi là ChatGPT nhé. Người thực hiện: Quang Hằng (*) Nội dung trả lời của ChatGPT có hiệu đính nhẹ để giúp thông tin đưa tới bạn đọc tốt hơn. Theo khảo cứu sơ bộ, các dữ liệu được trích dẫn bởi báo địa phương và UNICEF Việt Nam đóng vai trò như một lời cảnh tỉnh cho chính phủ và xã hội Việt Nam nói chung để ưu tiên và đầu tư vào các nguồn lực và hệ thống hỗ trợ về sức khỏe tinh thần. Bài báo gần đây được đăng tải online trên một tờ báo địa phương tại Việt Nam đã đưa ra những lo ngại nghiêm trọng về tình trạng sức khỏe tâm thần trong nước. Những con số được thu thập từ Khoa Tâm thần của Bệnh viện Bạch Mai đã cho thấy rằng khoảng 30% dân số Việt Nam[1] đã từng trải qua ít nhất một rối loạn tâm thần trong suốt cuộc đời của họ. Càng đáng lo ngại hơn, một nửa số người bị ảnh hưởng đã tìm kiếm những phương thức trị liệu cho các vấn đề tâm lý (Le, 2022)[2]. Ngoài ra, UNICEF Việt Nam (2018) cũng đã triển khai một nghiên cứu trên diện rộng về sức khỏe tinh thần và tình trạng tâm lý của trẻ em và thanh niên trong nước[3]. Nghiên cứu này cho thấy rằng từ 8% đến 29% dân số trẻ Việt Nam đang gặp phải vấn đề sức khỏe tâm thần. Trước đây trong truyền thống Phật giáo, giới tu sĩ thường được biết đến với lối sống ẩn cư và tu tập như một kỷ luật tôn giáo. Tuy nhiên, thời nay, việc thực hành tu tập trong Phật giáo đã chuyển dịch sang cách tiếp cận sứ mệnh hóa, bao gồm việc nghiên cứu kinh điển, truyền bá các giáo lý Phật giáo và tham gia các hoạt động xã hội (Schedneck, 2021)[4]. Việc sử dụng thiền chánh niệm (mindfulness meditation) như một cách thức giúp giảm bớt khổ đau tinh thần và thúc đẩy sức khỏe tâm lý trong xã hội hiện đại không hoàn toàn giống với Tự do Niết Bàn, nói cách khác là sự tận diệt khổ đau của con người, mà giới tu sĩ Phật giáo đã hành trì xuyên suốt 2,600 năm kể từ khi Đức Phật Gotama chứng ngộ và chỉ dẫn lộ đạo cho hàng cư sĩ và đệ tử. Ngày nay, sự quan tâm đến lợi ích của thiền chánh niệm đã tăng lên đáng kể, cả trong lĩnh vực học thuật và tâm lý lâm sàng trong vài thập kỷ gần đây (Germer et al. 2005; Tirch et al. 2016; Gold & Zahm 2018)[5]. Sự phổ biến của thiền chánh niệm hiện đại đã trở thành một xu hướng gia tăng từ các quốc gia phương Tây về lại phương Đông, đặc biệt là trong bối cảnh các xung đột và khủng hoảng toàn cầu, khi mọi người tìm nhiều cách để vượt qua các bất ổn tinh thần cá nhân và cải thiện hiện trạng tâm lý của mình. Ở các nước chịu ảnh hưởng của Phật giáo như Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam, thiền chánh niệm đã trở thành một phong trào thế tục được đông đảo cư sĩ ủng hộ. Sự chuyển đổi từ thực hành tôn giáo truyền thống sang các hình thức tu tập chánh niệm thế tục đang là lời giải cho những đòi hỏi phức tạp và nhu cầu đổi thay tất yếu của xã hội hiện đại. Khác với các xã hội truyền thống hoặc cổ xưa, nơi mà sự thực hành văn hóa và tín ngưỡng có thể thường được nhìn nhận mang tính tập thể và tôn giáo, các xã hội hiện đại ngày nay được đặc trưng bởi lối sống vội, những chuẩn mực văn hóa không ngừng thay đổi, những tiến bộ công nghệ AI và sự thể hiện cá nhân đậm nét. Việc chú trọng đặc biệt đến thực hành chánh niệm được minh chứng là một phương thức để mọi cá nhân trong các xã hội đô thị giải quyết những vấn đề tâm lý cũng như hướng đến sự cân bằng, hòa bình và ý nghĩa của cuộc sống. Quang Hằng --- [1] Tới 2023, dân số Việt Nam ước tính khoảng 100 triệu người. Dữ liệu trích xuất 15/02/2023, https://www.worldometers.info/world-population/vietnam-population/ [2] Le Duy, 2022. “We are not paying enough mind to mental illnesses”. Perspectives. VNExpress International. Retrieved on 15 Feb 2023, https://e.vnexpress.net/news/perspectives/we-are-not-paying-enough-mind-to-mental-illnesses-4428398.html [3] Nghiên cứu này thực hiện khảo sát dân số trẻ của đại diện 10 trên 63 tỉnh thành Việt Nam. Dữ liệu trích xuất 16/02/2023, https://www.unicef.org/vietnam/reports/mental-health-and-psychosocial-wellbeing-among-children-and-young-people-viet-nam [4] Dữ liệu trích xuất 15/02/2023 https://doi.org/10.1093/acrefore/9780199340378.013.875 [5] Sách tham khảo KHI CÓ CHÁNH KIẾN VÀ CHÁNH NIỆM ĐỦ MẠNH<< tiếp phần 1 *** Nếu nhìn vọng tưởng xuất phát từ vô minh (moha) là một bản năng bất thiện, thì chỉ khi MINH hay Chánh Kiến khởi lên, các hành (saṅkhāra) mới trở thành hành thiện và đưa đến thiện nghiệp (kusala kamma). Chính điều này đã thay đổi bản năng bất thiện vốn tồn tại bao năm nơi tâm chúng tôi. Tâm lý học và tâm lý trị liệu ngày nay khi đi tìm những phương thuốc chữa trị các căn bệnh về tinh thần, stress và các chấn thương tâm lý lại nghiên cứu, áp dụng Chánh Niệm từ Đạo Phật. Có một điều khác là sự áp dụng này còn mang tính thực dụng và bề nổi. Theo một góc nhìn phê phán của những học giả Phật học thuần túy, sự áp dụng bề mặt thiếu kiểm soát [bệnh nhân] trên phương diện Đạo đức và thiếu đi sự giảng dạy về Giáo pháp thuần túy khiến cho việc điều trị mang tính chất tạm thời. Ở một góc nhìn phản biện, TS Eng-kong Tan (2016)[i] - một nhà tâm lý học trị liệu với hơn 30 năm kinh nghiệm - chia sẻ rằng khi những khách hàng của ông sau quá trình điều trị (có thể vài năm) chợt nhận ra, và thay đổi hành động theo phương châm đạo đức, là lúc ông cảm thấy cả mình và khách hàng đã thành công trên lộ trình trị liệu tâm lý. “Cha đẻ” của MBSR, John Kabat-Zinn - người rất thành công khi đưa lộ trình 8 tuần trị liệu dựa trên nền tảng chánh niệm vào các bệnh viện và trường học tại Mỹ từ năm 1979 - cũng đồng thuận với phản biện về Đạo đức và Giáo pháp trên nền tảng [mâu thuẫn các quan điểm] tôn giáo nếu chúng được đưa vào lộ trình trị liệu. Tuy vậy ông nhận định rằng Đạo đức nên chăng là vấn đề ngầm định trong các trị liệu hiện đại với MBIs – các ngăn chặn trên nền tảng chánh niệm (Kabat-Zinn 2011)[ii]. Trên phương diện cá nhân, chúng tôi hướng đến Đạo đức được hình thành trên nền tảng 5 giới cơ bản của một Phật tử thuần thành: (1) Không sát sanh, (2) Không nói sai sự thật, (3) Không thông dâm, (4) Không lấy của không cho và (5) Không uống rượu và các chất say. Việc giữ các giới này không khẳng định rằng một cá nhân theo Đạo Phật hay một tôn giáo cụ thể, nhưng chúng là tiền đề cho sức mạnh của Chánh Niệm. ‘Niệm’ được hiểu là sự nhớ nghĩ, hay biết. Chánh niệm và thiền quán được dạy bởi Đức Gautama nhấn mạnh tới hai ý nghĩa: (1) hiện tại hiện tiền (S 47.2)[iii] và (2) sự vô thường của các pháp hữu vi (S 47.35)[iv]. Nếu một hành giả có tâm ý bất thiện, thì khi hành thiền, các bất thiện nghiệp khởi lên. Chúng là rào cản của chánh định và cũng là căn nguyên của những bất an tinh thần. Ngược lại, một hành giả có tác ý giữ giới và hành thiện, vị ấy rất tự nhiên vui sống với các hành thiện đó. Hỷ lạc phát sinh khi vị đó ngồi tĩnh lặng chiêm nghiệm. Với Giáo pháp cùng sự tu tập, khi căn duyên vừa đủ, MINH (tuệ quán) khởi lên giúp vị đó thấy rõ các pháp như nó vốn là. Chánh niệm là một trong 5 căn thức của 37 phẩm trợ Đạo (đưa đến giác ngộ), cũng chính là một trong 5 sức mạnh giúp một hành giả tinh tấn hành trì trên con đường giải thoát. Khi Chánh Niệm đủ mạnh, các bản năng thiện tự động sinh khởi mà không cần thêm một tác ý thay đổi nào. Nói theo một cách khác, cùng với Chánh Kiến và Chánh Tinh Tấn, hành giả ấy hay biết, ghi nhận sự vô thường của Danh và Sắc, có thể sống với thái độ an nhiên tự tại và áp dụng Đạo như một nghệ thuật sống để đối diện, ứng phó với những nghịch cảnh có thể xảy ra. BẢN NĂNG YÊU THƯƠNG Bản năng yêu thương được tích hợp trong nhu cầu tâm lý bậc 3 của tháp nhu cầu Maslow (1943). Tuy vậy, khi nhìn rộng ra muôn loài, bản năng yêu thương được hình thành ngay khi chúng có sự sống. Goran Anastasovski - một nhiếp ảnh gia đến từ Macedonia - đã dành hơn 12 năm lưu giữ lại những khoảnh khắc đầy yêu thương của các loài động vật trong tự nhiên[v]. Bản năng yêu thương trong Đạo Phật dùng hình tượng tình mẹ để thấy sự hy sinh trong tâm từ - tình yêu thương không vị kỷ (mettā or loving-kindness). Tâm từ ái, đồng nghĩa với sự vắng mặt của sân hận (abyāpādo), cũng chính là một trong 4 pháp nguyên sơ, không tạp nhiễm và trường tồn với thời gian (A 4.29)[vi]. Hơn lúc nào hết trong thế giới hiện tại này, bản năng yêu thương cho muôn loài nên được đánh thức và vun bồi trong tâm hồn trẻ nhỏ, để có thể tránh những lệch lạc của tâm lý khi trưởng thành (như trầm cảm, tự kỷ, cảm giác cô độc hay bị kỳ thị, v.v). Nếu như chúng ta chưa thể thực hành theo lời dạy của Đức Gautama với mục đích chấm dứt sự khổ (dukkha) trong luân hồi, thì cũng có thể học theo Đức chúa Giêsu gieo trồng một tình yêu thương hướng thượng. Và nếu như chưa thể buông bỏ sự sống, thì cũng có thể học cách yêu sự sống với tâm từ ái và hướng về vị Phật tương lai, Đức Metteyya[vii] - vị Bồ tát mang biểu tượng của tâm từ bi, hạnh phúc trong Đạo. Quang Hằng NSW, 03-10-2016. [i] Khóa học Healing traditions: Buddhism and Psychotherapy tại NTI (2016) [ii] https://drive.google.com/file/d/0B03M5lle_5i4czJici10SGlJaTA/view [iii] https://suttacentral.net/vn/sn47.2 [iv] https://suttacentral.net/pi/sn47.35 [v] http://thieunien.vn/67-vui-doc-la/19316-chum-anh-chung-minh-yeu-thuong-la-ban-nang-cua-muon-loai.html [vi] https://suttacentral.net/vn/an4.29 [vii] https://vi.wikipedia.org/wiki/Di-lặc Thời tiết Úc châu đang chuyển mùa… 2h00 sáng ngày 02/10/2016, Úc châu có đợt chuyển múi giờ lần thứ hai trong năm. Tức là sáng hôm đó tại New South Wales, nếu bình thường là 2h00 sáng như những hôm trước, thì nay là 3h00 AM. Mọi sinh hoạt vẫn diễn ra bình thường, trừ việc các tình nguyện viên sẽ dậy sớm hơn 1 tiếng và ngủ ít đi 1 tiếng, để bữa sáng vào lúc 7:30 AM được chu toàn cho hơn 60 thành viên đang sống và tham quan hành hương tại chùa Nam Thiên. Trong thân tâm mỗi lữ khách hành hương chúng tôi, cảm nhận về sự thay đổi của thời tiết diễn ra liên tục. Cái ao sen vào mùa đông trơ trọi lá mà lũ trẻ gọi vui là ‘fish pond’ (ao cá), thì giờ từng nhánh từng nhánh lá đang hé nở, nằm trôi bồng bềnh trên mặt nước. Lũ vịt trời đủ loại, hằng ngày bay đến lại bay đi. Rồi những sáng nắng đẹp trời, đàn chim hải âu lần lượt từng con đáp xuống những bãi cỏ xanh kiếm mồi. Thiên nhiên quả là đẹp, cứ diễn ra như vậy và dường như chẳng màng tới những tạo tác của ý căn nơi cõi nhân sinh hỗn độn này… Nhiều năm về trước, chúng tôi cũng như nhiều người khi còn trẻ rất thích đi theo ‘tiếng gọi’ của bản năng. Một người chị bạn (sếp cũ) đã từng nói với tôi rằng: “Em sống bản năng quá”. Ấy vậy mà trong bao năm tôi vẫn chẳng hiểu “bản năng” mà chị nói có nghĩa là gì? Rồi lang thang trên mạng lại thấy câu phương ngôn: “Có 2 thứ bạn phải kiểm soát là bản năng và cảm xúc”. Nghĩ cũng lạ, vậy bản năng là gì? Dưới góc nhìn của Đạo, luận giải mang tính học thuật này xin gởi tới những bạn trẻ, và đặc biệt với những ai đang cảm thấy mình trong hiện tại “sống theo bản năng”. ĐỊNH NGHĨA Wikipedia định nghĩa: “Bản năng là khuynh hướng vốn có của một sinh vật đáp lại một tác động hay điều kiện cụ thể”[i]. Tháp nhu cầu về tâm lý con người của Maslow (1943)[ii] có lẽ tóm lược khá sâu sắc 5 nhu cầu bản năng của con người: (1) Nhu cầu sinh tồn và sinh lý, (2) Nhu cầu an toàn, (3) Nhu cầu yêu mến và phụ thuộc xã hội, (4) Nhu cầu tôn trọng, và (5) Nhu cầu thể hiện bản ngã. Còn trong Đạo Phật hơn 2,560 năm trước đây, Đức Gautama cho phép các đệ tử được thọ dụng 4 đồ dùng tối thiểu là thức ăn, y phục, chỗ ở và thuốc men[iii]. PHÂN TÍCH TÂM LÝ VÀ SO SÁNH Nhìn theo tâm lý học hiện đại thì tứ vật dụng này đáp ứng nhu cầu sinh tồn và sinh lý căn bản, nhằm giúp một hành giả có đủ các điều kiện cho việc học Đạo và đi đến giải thoát (trong hoàn cảnh xã hội Bắc Ấn thời ấy). Bên cạnh đó, nếu như tâm lý học hiện đại theo lý thuyết của Maslow nhìn nhu cầu an toàn thuần theo góc độ vật chất (an toàn thân thể, sự ổn định các nguồn lực xã hội như việc làm, tuổi thọ, an ninh và tài sản) thì trong Đạo Phật, việc tìm kiếm một nơi chốn phù hợp giúp hành giả thuận tiện (về mặt tác ý) trên con đường tu tập là điều quan trọng (A 10.11)[iv]. Thêm nữa, Maslow đưa ra nhu cầu yêu thương và được yêu mến trong xã hội loài người nhằm chỉ đến các mối quan hệ xã hội, quan hệ gia đình và quan hệ tình cảm – sinh lý. Còn Đức Gautama thì khuyên các đệ tử của mình hãy tìm những Đạo hữu tốt để có thể giúp bản thân hành giả tiến bộ trên con đường tu tập (S 45.50)[v]. Những Đạo hữu ấy có thể là những người thày, bạn Đạo đồng môn, hay bất cứ ai giúp họ nhận ra chân lý của con đường giác ngộ. Hai nhu cầu còn lại là sự tôn trọng và thể hiện bản ngã - trái ngược với tâm lý học hiện đại hướng đến những thành tựu và sự công nhận vật chất, danh tiếng - lại là thứ cần buông bỏ đối với một đệ tử Thế tôn. Bởi chúng là nguồn cộng sinh mang đến sự khổ (dukkha). Khi còn trẻ, chúng ta cố gắng đuổi theo tiền tài, vật chất. Lúc một nhà tư bản đưa ra một miếng ăn đủ ngon và hấp dẫn, mắt chúng ta nhìn, tâm ý khởi sinh sự thỏa mãn và muốn được thỏa mãn. Ái (sự thèm muốn) sinh Thủ (sự dính mắc). Cho đến khi sự dính mắc ăn sâu vào tâm trí, chúng ta quyết phải dành cho được miếng mồi vật chất thơm ngon đó (Hữu). Đây đơn thuần là bản năng bất thiện khởi sinh từ tâm tham ái mà hiếm có ai chưa từng trải qua. Chúng tôi đánh giá cao bài phân tích: “Tình dục – Nhu cầu hay phương tiện?”[vi] của Mark Manson (2013)[vii]. Dưới góc nhìn tâm lý học hiện đại, Manson đã phân tích và đưa ra kết luận: “Đó là vấn đề cảm xúc, không phải vấn đề tâm lý.” Hay nói theo cách khác, Manson phân tích các nhu cầu tâm sinh lý con người để khẳng định rằng tình dục chỉ là một phương tiện giúp thỏa mãn các nhu cầu tâm lý (3) và (4) theo thuyết nhu cầu Maslow. Bằng chứng là: “Không ai tự sát vì ế cả. Nhưng họ sẽ làm điều đó vì cảm thấy cô độc hay bị khinh rẻ” (Manson 2013). Nhìn về Đạo Phật, Đức Thế tôn chỉ rõ: ái dục là căn nguyên của khổ (D 15)[viii]. Ở đây, ái (Pāli: taṇhā) có nghĩa đen là cơn khát. Ái được sinh ra từ cảm thọ yêu thích (lạc thọ). Khi lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, tưởng) sinh ra lục thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, tưởng ý thức) và là tiền đề của 3 loại cảm thọ chính: lạc thọ, khổ thọ, bất lạc bất khổ thọ. Khi một hành giả không giữ chánh niệm hoặc chánh niệm chưa đủ mạnh (không thể hay biết, ghi nhận và sáng suốt ý thức) những cảm thọ này, tham ái, sân hận hay vọng tưởng thừa cơ hội khởi sinh. Đây là khuynh hướng bất thiện và rất tự nhiên của ý căn. Nói theo cách khác, bản năng bất thiện của tâm được sinh ra từ đây. Sự tinh tấn hành trì tu tập sẽ giúp hành giả nhìn ra những khuynh hướng bất thiện này và sửa chữa chúng. Tiếp phần 2 >> [i] https://vi.wikipedia.org/wiki/Bản_năng [ii] https://vi.wikipedia.org/wiki/Tháp_nhu_cầu_của_Maslow [iii] http://www.accesstoinsight.org/lib/authors/ariyesako/layguide.html#req4 [iv] https://suttacentral.net/vn/an10.11 [v] https://suttacentral.net/vn/sn45.50 [vi] http://tamlyhoctoipham.com/tinh-duc-nhu-cau-hay-phuong-tien/ [vii] https://markmanson.net/sex-and-our-psychological-needs [viii] https://suttacentral.net/vn/dn15 |
Quang HằngVới sự hứng thú trong Thiền, Phật học ứng dụng, và Sức khỏe tâm lý, các bài viết được góp nhặt và đăng tải với hy vọng giúp Đạo hữu và cư sĩ hiểu hơn về lợi ích của Thiền trong Tâm lý trị liệu. Archives
April 2024
Categories
All
|