|
THIỀN TRỊ LIỆU | Tâm lý trị liệu trên nền tảng Thiền Phật giáo
Cuộc đời vốn dĩ có khổ. Những nỗi khổ đau luôn bao trùm và chồng chất lên nhau. Vậy khổ do đâu mà có? Từ đâu mà khổ sinh ra? Con người họ cứ mãi đổ thừa rằng khổ là do cuộc đời này mang lại. Nhưng ở góc nhìn của một người học Phật, khổ hiện hữu là ở nơi tâm mình. Tâm ta hay thân ta, sáu căn của ta, thân ngũ uẩn này của ta, khi ta sinh ra thì những ý nghĩ đó đã được mặc định cho ta từ cha mẹ, từ thân quyến, từ môi trường xung quanh và các mối quan hệ xã hội. Những mặc định đó dần hình thành trong sâu thẳm tâm thức của ta mà chính ta không thể nhận thức được. Đó là “ngã”. Ta thường hay bồi dưỡng cho cái ngã của ta trong vô thức, dần dần, cái ngã tham lam, cái ngã đầy sân hận và si mê, cái ngã điều khiển ta mà ta lại vô tình cho rằng những hành vi của mình là đúng. Nếu là một con người chưa được học tập giáo lý nhà Phật thì làm sao biết được mà dừng lại những tham muốn của tâm và thân, làm sao biết được khổ là nơi tự ta sinh khởi chứ không phải do chỗ khác mà có hay làm sao biết được con đường để diệt sự khổ đau ấy. Vậy nên, là một người xuất gia cần phải biết con đường dẫn đến sự diệt tận khổ đau ấy là con đường tu tập Thánh đạo Tám ngành, nghĩa bao hàm trong tu Giới, tu Định và tu Tuệ, tức Tam Vô Lậu Học. Mà Thiền chính là phương pháp mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni Buddha) đã tinh tấn tu tập xuyên suốt trong 49 ngày đêm dưới cội cây Tất Bát La (còn gọi là cây Bồ Đề - Bodhi Tree) để chứng được Thánh quả tối thượng, thấu rõ nguyên nhân của khổ đau mà sáng tỏ con đường diệt khổ. Phật Quang Đại Từ Điển giải thích rằng Thiền là Hán dịch từ tiếng Sanskrit (Phạn) Dhyana (Thiền-na) và tiếng Pali là Jhana (Thiền), có nghĩa là Tĩnh lự, Tư duy tu tập, Khí ác, và Công đức tùng lâm. Thiền chỉ cho trạng thái định tuệ đồng đều, tâm chuyên chú vào một đối tượng nào đó, rất vắng lặng để tư duy một cách sâu sắc, rõ ràng. Thiền là pháp cho tất cả Phật tử và không phải Phật tử… nhưng mục đích đạt đến và đối tượng tư duy thì đều khác nhau. Thiền và các thứ định khác gọi chung là thiền định; cũng có thuyết cho Thiền là một loại định nên gọi tu thiền trầm tư là Thiền tư. (Thích Quảng Độ, Phật Quang Đại Từ Điển, Tập V, Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất bản, tr. 5781-5782). Này các thầy Tỷ-kheo, con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt qua mọi sầu não, khổ, ưu, thành tựu chánh lý, hiện chứng Niết-bàn là con đường này: Đó là Bốn Niệm Xứ. Hiểu được định nghĩa về Thiền Tứ Niệm Xứ, con đường sáng tỏ chân lý ngày một được khai mở và đến gần. Bốn Niệm Xứ là bốn con đường quán niệm về Quán Thân, Quán Thọ, Quán Tâm và Quán Pháp. Con người hạnh phúc hay khổ đau là do nơi tâm mình. Khi thân xúc chạm, tâm sẽ cảm thọ được vật chất tiếp xúc qua thân hay tinh thần tiếp xúc qua tâm. Tâm cảm thọ được là thông qua quá trình trải nghiệm, học tập trong đời sống lẫn trong môi trường giáo dục hình thành nên vòng tròn nhận biết có sẵn trong tâm thức. Nhưng nếu con người chưa được tiếp cận giáo lý nhà Phật, đôi khi con người cảm thọ sự khổ đau nhưng lại cho nó là sự vui thích, như trong Tâm lý học có nhắc đến bệnh lý “khổ dâm”, tức người đó sẽ tận hưởng khoái lạc trong sự hành hạ thể xác nặng nề ở bạn tình của mình. Sau khoái lạc, người đó sẽ cảm thấy đau đớn về thể xác cũng như những hối hận liền xuất hiện ở tâm. Vậy đó có phải là thân và tâm đều chịu khổ do ham muốn nơi thân không? Vì thế, một người xuất gia, từ những ngày đầu chập chững học tập giáo pháp nhà Phật, chấp nhận cắt bỏ những ràng buộc của cuộc đời, khắc kỷ thân tâm mong mỏi một ngày đoạn dứt điều ác, thực hành điều thiện mà thành tựu chân lý thì việc đầu tiên phải xác định rõ được con đường mà đức Phật đã tu tập chứng ngộ là ở đâu? Đức Phật Thích Ca, Ngài đã trải qua suốt bao năm tháng ròng rã tu tập thiền, tuy là thiền ngoại đạo (Bà-la-môn giáo) nhưng Ngài cũng đã chứng đến cảnh Phi tưởng phi phi tưởng xứ-cảnh giới cao nhất của Thiền ngoại đạo, tuy vậy Ngài vẫn cảm thấy chưa đoạn dứt cảnh sanh tử khổ đau; cho đến khi Ngài quyết từ bỏ lối tu khổ hạnh, chuyên tâm thiền định trong suốt 49 ngày đêm thì liền chứng đạo quả. Ngài dạy nguyên nhân chính để nhập định và đạt được trạng thái đầy uy lực tột đỉnh của nội tâm đó chính là khả năng buông xả và từ bỏ. Nói tóm lại, Thiền là một trong ba thành tố cốt lõi của con đường Trung đạo hướng đến sự giải thoát. Ai trong chúng ta không thực hành thiền định thì chắc chắn không bao giờ ta đạt được tuệ giác, đạt được Niết-bàn như lời Đức Phật đã dạy:
Quán Tâm là một trạng thái tâm chuyên chú, chuyên nhất chỉ nghĩ đến tâm mình. Một ngày, hai ngày, hay vài tháng vài năm, nếu chúng ta không nhìn lại tâm mình thì chắc hẳn tâm ta đã luôn chạy theo phiền não tham muốn, yêu ghét, tốt xấu, danh vọng địa vị hay quyền uy của cuộc đời. Vậy người tu là phải buông xả những điều kiện ngoài thân mà quay về chăm sóc trưởng dưỡng đạo tâm. Khi tâm ta tĩnh lặng, ta có sự cảm nhận và trải nghiệm sâu sắc về tâm, cảm nhận được sự tồn tại của tâm và mọi thứ xung quanh. Từ đó mà diệt trừ được các ác pháp nơi thân đã làm, tâm đã nghĩ và duy trì được định hướng thiện lành mà tâm mong muốn, cũng như mang lại sự an lạc nội tâm. Trải qua quá trình được học tập, tiếp thu kiến thức và trải nghiệm thực hành Thiền trong suốt một học kỳ vừa qua niên khóa 2023-2024, tôi đã có những trải nghiệm sâu sắc và đáng nhớ khi thực hành thiền quán tâm của mình. Tôi thấy rõ những sự hơn thua, thương ghét, đố kỵ, ganh tỵ nơi tâm. Những sự tu tập trước đây của tôi, tôi cảm thấy mình thật ích kỷ. Khi lần đầu ngồi lại một chỗ, nhắm mắt lại, điều chỉnh hơi thở vào ra, tâm tôi liền chỉ xuất hiện những người hay nói xấu tôi, trách móc tôi, tôi liền chỉ thấy thân mình đang dần nóng lên, sự tức giận liền nổi lên và ý nghĩ “trả đũa” đã xuất hiện. Những người làm cho tôi vui, tôi hài lòng, tôi cũng chỉ cảm thấy họ lợi dụng những lợi ích khi ở cạnh tôi mới làm tôi vui, tôi liền nảy sinh tư tưởng ghét họ và không muốn nhìn mặt hay giúp đỡ ở lần gặp mặt sau. Có phải chăng tâm tôi luôn hiện hữu những ý nghĩ như thế, tuy không thể hiện ra những hành động ngoài thân, nhưng trong sâu thẳm tâm tôi thật sự ích kỷ. Những cảm giác, tri giác, những tâm lý mà tôi luôn cố nghĩ rằng mình luôn lương thiện, luôn vui vẻ và hòa đồng có thật sự là tốt không? Tốt cho người khi tôi vui vẻ bên ngoài mang lại sự vui vẻ cho họ nhưng liệu tôi có thật tâm tốt không? Hay những ý nghĩ, tâm lý ấy có thật sự mang lại niềm an lạc tự nơi tâm không? Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra trong đầu tôi lúc ấy. Những buổi thiền tập quán hơi thở sau đó, tôi dần dần lấy lại được sự bình tĩnh vốn có của tâm, từ từ tôi phân biệt và suy tư về nó, điều gì khiến tôi vui, điều gì khiến tôi buồn, tôi hạnh phúc lúc nào và ở đâu? Khi hơi thở dần được điều hòa ở lần ngồi thiền sau, tôi nhận thức được rằng, do tâm tôi còn bám víu và chấp chặt vào cái ngã của mình, sợ cái ngã tổn thương, sợ cái ngã đau khổ mà thân tâm tôi lúc nào cũng sẵn sàng hi sinh vì cái ngã. Ngay khi đó, tôi liền cảm thấy rằng bản thân cần buông xả những ràng buộc đó, vì có xả bỏ thì mới có sự an lạc nơi tâm. Có an lạc tự tâm thì mới tiếp thu được chân lý nhà Phật, từ đó mà phát triển được tuệ giác, thấu rõ được cội nguồn và căn cơ của các pháp. Khi từ bỏ được những ước vọng tham lam của tâm, những ham muốn ăn mặc, ngủ nghỉ, danh lợi của thân, tôi liền nhận thấy rõ thân tâm nhẹ nhàng thong dong, không còn vướng bận vào bất cứ điều gì hay việc gì xảy đến, thấy rõ mọi thứ xung quanh hiện diện được là một việc hy hữu. Nếu không có những khổ đau trong mong cầu không đạt được, những yêu thương không được đáp trả, những mối thù hận riêng tư hay những thành tựu mà bản thân có được trong quá khứ thì chắc hẳn việc thiền tập quán tâm sẽ không mang lại kết quả tối ưu. Sau khi được trải nghiệm môn học, tôi thấy rõ trong mình luôn hiện hữu sự hạnh phúc, niềm an lạc mà trước nay chưa từng có được. Tôi cảm nhận được những bước chân mà tôi đang đi, hơi thở mà tôi đang thở, bầu không khí mà tôi đang nương hơi thở duy trì sự sống, những chiếc lá, cành cây hay tất cả những người đến với tôi,… tôi đều thật tâm cảm thấy mỗi sự vật hiện hữu, hữu hình hay vô hình đều mang một ý nghĩa tuyệt vời. Tất cả mang một sứ mệnh cao cả giúp tôi có được hạnh phúc ngày hôm nay. Tôi thầm tri ân tất cả. Tác giả: Thánh Minh
Ni sinh trường TC Phật học Tiền Giang Biên tập: QH Comments are closed.
|
Quang HằngVới sự hứng thú trong Thiền, Phật học ứng dụng, và Sức khỏe tâm lý, các bài viết được góp nhặt và đăng tải với hy vọng giúp Đạo hữu và cư sĩ hiểu hơn về lợi ích của Thiền trong Tâm lý trị liệu. Archives
April 2024
Categories
All
|