|
THIỀN TRỊ LIỆU | Tâm lý trị liệu trên nền tảng Thiền Phật giáo
Trong Kinh Pháp cú kệ 3, Đức Phật đã dạy: Tâm hoảng hốt dao động Quán tâm là sự tập trung nhận diện và làm việc với các tình huống khác nhau của tâm. Kinh niệm xứ (MN 10) cũng nói rõ, khi quán tâm, chúng ta sẽ biết rõ liệu tâm của mình có tham lam hay không. Khi tập trung nhìn vào tâm, chúng ta sẽ tường tận thấy hết các diễn biến khác nhau của nó. Đặc biệt, đối với những người mới bắt đầu làm quen với thiền quán, sẽ không tránh khỏi sự vọng tưởng của tâm. Chính bản thân tôi cũng từng trải qua những trạng thái như vậy, những vọng tưởng liên tục nối tiếp nhau, khiến cho tâm không được yên. Trong những tình huống như vậy, tôi đã học cách chế ngự bằng cách hít thở thật sâu, bước đầu đếm hơi thở từ 1 đến 10 và ngược lại để xua tan những vọng tưởng đó trong đầu. Về tâm, Đức Phật đã giảng rằng có tổng cộng 16 loại tâm có thể lấy làm đề mục thực hành quán tâm, bao gồm:
Nhờ sự nhìn tâm như vậy, khi chúng ta có tâm tham khởi, sẽ biết khi nào ta đang tham; hay khi nào thấy ta đang sân nếu thực hành chánh niệm ngay ở thời khắc tâm sân sinh khởi. Trong cuộc sống hàng ngày, làm thế nào để tránh khỏi những điều không vừa ý? Nhiều khi sẽ có những chuyện khiến chúng ta bực dọc khó chịu. Người đời có cái khó khăn của họ, còn người tu sĩ chúng ta lại có những cái khó khăn của người tu sĩ. Đã sinh ra làm một con người, ai cũng sẽ có những vấn đề, thử thách khó khăn cả. Việc thực hành thiền cũng vậy, rất cần có thời gian để tự mình trải nghiệm. Thiền không phải một hình thức chỉ để chúng ta nói suông, nó là một quá trình dài, cần sự kham nhẫn của cá nhân đó. Là một hành giả mới bắt đầu tìm hiểu về thiền, cần biết rằng Thiền được chia ra rất nhiều nhánh, tuy nhiên ở đây tôi chỉ nói đến một khía cạnh của việc thực hành quán tâm như trong Kinh Tứ Niệm Xứ mà thôi. Chính vì bản thân có duyên lành được trải nghiệm cùng đại chúng trong chuyến đi về Trung tâm thiền Vipassana của thầy Hiệu trưởng, mà với tôi đó là một ngày tu trải nghiệm thật đáng nhớ. Nó ấn tượng bởi vì, đây là lần đầu tiên bản thân tôi được kinh nghiệm một thời khóa như các hành giả chuyên tu. Tuy đã được thông báo trước đó là hai tuần, nhưng trong lòng tôi thấy nôn nao vô cùng. Bản thân luôn ở trạng thái nghi ngờ cho chính mình, bao nhiêu câu hỏi luôn khởi trong đầu, liệu trong chuyến đi này, mình có thu hoạch được gì hay không, nhiều câu hỏi đặt ra rồi lại trăn trở xen lẫn là sự sợ hãi. Sở dĩ lo lắng như vậy vì bản thân tôi trước giờ ít khi thực hành thiền, lại chưa có kinh nghiệm thực hành thiền nhiều. Có chăng nữa là thi thoảng tôi có đi kinh hành, vì bản thân tôi hay thường xuyên bị áp lực, không biết chia sẻ, tâm sự cùng ai. Những lúc như vậy tôi thường đi kinh hành, cốt để thả lỏng tâm mình, những lần đó khiến tâm tôi rất bình yên. Việc đó cứ âm thầm lặp đi lặp lại khiến cho tôi cũng trở nên thuần thục và cảm thấy thích thú với nó, xem nó như một cách giải tỏa áp lực. Rồi ngày ấy cũng đã đến, ngay từ sáng sớm khoảng 6h, hai chiếc xe đã chờ đợi chúng tôi ở đúng địa điểm. Đại chúng này, tức là tập thể ni sinh khóa IX của chúng tôi, sẵn sàng bắt đầu hành trình dài hơn 25km từ nội thành Mỹ Tho đến huyện Châu Thành, Tiền Giang. Cuối cùng, chúng tôi đã đặt chân đến Trung tâm thiền của thầy. Điều đầu tiên khiến tôi say mê là sự yên bình nơi đây. Lối vào trung tâm được bao bọc bởi những hàng dừa xanh mát, không khí phải nói hết sức trong lành. Dọc hai bên lối đi, tôi chỉ cảm nhận một màu xanh của cây lá, tạo nên một khung cảnh đậm chất thiền nơi vùng thôn giã. Sau một lúc được nghỉ ngơi, sư cô giáo thọ đến và bắt đầu hướng dẫn chúng tôi vào bên trong chánh điện để ngồi thiền. Ngồi yên lặng như thế tầm khoảng 30 phút gì đó rồi chúng tôi được nghỉ giải lao, bắt đầu công cuộc đi kinh hành xung quanh Trung tâm thiền. Trước tiên, sư giáo thọ cho cả lớp ni chúng tôi xếp thành các hàng đối xứng nhau. Tuy nhiên, chúng tôi đều được nhắc nhở: "Tất cả mọi người phải tịnh khẩu trong lúc đi hành thiền, không ai được nói đến ai, hay ai được nhìn ai, mà phải tập trung tự mình trải nghiệm." Điều này thật sự tuyệt vời, vì sư giáo thọ mong muốn chúng tôi hiểu rõ hơn về lợi ích của việc hành thiền. Sau đó, chúng tôi bắt đầu những bước đi đầu tiên, đi chậm rãi với sự hướng dẫn của sư giáo thọ. Cả đại chúng theo đều theo nhịp bước đi trong khuôn viên Trung tâm, từng bước kinh nghiệm cuộc hành trình trên những đoạn đường không quá dài, nhưng vừa đủ để tâm trí tôi bắt đầu thấm nhịp. Ban đầu, tôi còn tò mò với cảnh đẹp xung quanh và đôi ba lần liếc mắt để nhìn xem. Sau khi sư giáo thọ nhắc nhở, tôi bỗng nhận ra và quay lại việc thực hành chú tâm. Khi những bước chân quen dần, một cảm nhận bình an chợt xuất hiện trong tâm và tôi bắt đầu nhận thức sâu sắc rằng hình như tôi chưa bao giờ thực sự sống cho chính mình. Những suy nghĩ trong đầu tôi xoay quanh một câu hỏi lớn: "Mình đang theo đuổi điều gì suốt thời gian qua?" Đó là câu hỏi quẩn quanh tâm trí tôi xuyên suốt buổi kinh hành. Những thắc mắc này khiến tôi hi vọng rằng mọi nghi ngờ trong tâm sẽ được giải đáp. Sau một thời gian kinh hành, tiếng chuông từ xa báo hiệu chúng tôi tập trung về chánh điện để bắt đầu giờ tọa thiền. Trong thinh lặng, mọi người tự tìm về chỗ ngồi của mình. Tôi chọn một vị trí gần sư giáo thọ, có lẽ do tin rằng từ trường ấy có thể giúp tôi ngồi yên. Đúng là một suy nghĩ khá con nít, vì khi bắt đầu ngồi xuống, tôi lại gặp khó khăn với đôi chân của mình bởi hậu biến chứng từ một chấn thương vỡ khớp gối do té xe năm học lớp 8. Cuối cùng tôi quyết định ngồi tư thế bán già cho đỡ đau chân. Lúc đầu, tôi cảm thấy thật khó khăn. Ôi thôi! Bao nhiêu vọng tưởng, suy nghĩ này đến suy nghĩ kia nó cứ xuyên suốt nối tiếp nhau khiến cho tôi cảm thấy bất an vô cùng. Tôi cảm thấy tự ti khi mà mình có những động tác nhúc nhích ngọ nguậy, không tài nào mà ngồi yên cho được. Thế rồi tôi chuyển hướng tâm trí đến sư giáo thọ, nhìn thấy hình ảnh người ngồi yên như một tượng Phật, tôi tự nói: "mình nhất định phải ngồi được". Thế là tôi bắt đầu, hít thở lại thật sâu, làm như vậy liên tục khoảng ba bốn lần gì đó rồi. Đây chỉ là cách tạm thời tôi muốn xua tan những suy nghĩ kia trong đầu. Bắt đầu tôi đếm từ 1 đến 10 và ngược lại như thế cho đến khi không bị nhầm, thì tôi không đếm nữa. Đó là cách mà tôi được học từ một sư cô ở Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức, chính sư cô đã dạy cho tôi khi tôi còn là phật tử. Dịp đó, tôi được tham gia cùng các bạn trong chuyến hành hương cúng dường. Khi ngồi một lát, vọng tưởng trong tôi cũng lần vơi bớt. Tôi bắt đầu cảm nhận một trạng thái an lạc hơn, và ngồi thiền lâu hơn so với mong đợi ban đầu. Vì trước giờ tôi chưa bao giờ ngồi lâu như vậy. Thời gian trôi mau, tôi chuyển qua đề mục thiền tâm từ. Tôi tác ý muốn hiểu rõ bản thân và tâm hồn, chúng đang muốn điều gì thế? Đến lúc này, một điều bất ngờ nhất đã xảy ra. Tôi muốn chọn một đối tượng để rải từ tâm, nhưng lại không thể nghĩ ra ai. Thế là tôi chuyển đối tượng thành chính mình. Tôi thử trải lòng với chính bản thân mình. Khi nhìn lại thật sâu thâm tâm tôi, tôi mới thực sự cảm nhận được tại sao hình ảnh của những người đã từng gây tổn thương cho mình lại hiện lên quá chi tiết như vậy. Điều mà tôi nhận ra là bản thân mình trước giờ chưa bao giờ tha thứ cho ai. Khi đó, tôi mới hay rằng suốt thời gian qua, mình đã lừa dối chính bản thân mình. Tâm mình còn sân lắm, còn chấp thủ lắm, và mình thực ra chưa thể buông bỏ chấp niệm. Đây là phát hiện thứ hai tôi nhận ra nơi tâm mình ngay tại giây phút tọa thiền ấy. Bỗng dưng, tôi cảm thấy biết ơn vô cùng. Thầm cảm ơn mọi nhân duyên hôm nay, biết ơn nhất vẫn là Sư cô giáo thọ, người đã tạo nhân duyên cho tôi và các bạn trong lớp, giúp chúng tôi trải nghiệm một ngày tu tập hết sức ý nghĩa. Bên cạnh đó, còn biết ơn thầy Hiệu trưởng đã trợ duyên phương tiện để lớp chúng tôi được thuận lợi và an toàn đến thực hành tại Trung tâm. Thương lắm những quý cô phật tử đã dành một ngày ân cần chăm sóc vật thực cho tôi và toàn thể đại chúng. Những món ăn được bày biện rất đầy đủ, chu đáo. Sau khi thọ thực xong, chúng tôi được nghỉ trưa. Đầu giờ chiều, khoảng 13h30p, chúng tôi tập trung để tiếp tục ngồi thiền, kinh hành, và nhiều hoạt động khác. Tất cả lặp lại giống như buổi sáng. Khoảng 16h, lớp chúng tôi được nghe bài pháp của thầy Hiệu trưởng và Pháp đàm cùng sư cô giáo thọ. Thầy và cô đã tận tình chia sẻ những kiến thức mà thầy cô kinh nghiệm được cho chúng tôi nghe. Những kiến thức mà chúng tôi chưa biết, hay những thắc mắc trong việc tọa thiền, chúng tôi đều được thầy và sư giáo thọ giải thích tận tình. Sau thời pháp đàm, cứ ngỡ là sẽ được về, nhưng Thầy và quý Phật tử lại tiếp tục thiết đãi chúng tôi bữa ăn nhẹ buổi chiều trước khi lên xe trở về. Suốt quãng đường về, trên khuôn mặt chúng tôi, ai nấy cũng nở nụ cười an lạc sau chuyến đi đó. Một ngày tu trải nghiệm của tôi đã đi qua như thế đó - một kỷ niệm khó quên. Mục đích của quán tâm trên tâm là nhằm thấy rõ tính duyên sanh, vô thường, vô ngã của các pháp hữu vi. Nó biểu hiện trong mọi tâm thức, chúng chỉ là các hiện tượng chuyển biến sanh diệt, không phải là thường hằng, thường trụ, có thực, đáng được xem hoặc đồng hóa là 'tâm tôi', là 'suy nghĩ của tôi'. Đức Phật cũng từng dạy rằng: 'Một khi chỉ một thoáng tâm sân hận khởi lên mà chúng ta không kiềm chế khắc phục được, thì lập tức muôn ngàn đau khổ tiếp nối theo sau'. Chúng ta cũng thường hay cho rằng thân và tâm thì rất quan trọng, nhưng ngược lại đối với Đức Phật thì lại khác. Ngài cho rằng: 'Nghiệp và ý thì mới quan trọng, khi ý suy nghĩ, miệng nói năng thì thân mới hành động'. Cho nên, Đức Phật nói “Ý dẫn đầu các pháp, chính tâm ý tạo tác nên duyên hành mà khiến cho chúng sanh tạo nghiệp sai khác.” Nếu muốn chế ngự tâm ý, trước hết chúng ta cần thực hành chánh niệm để quán chiếu những vọng động nơi tâm, làm lắng xuống những vọng động kia và khi đủ duyên cần dứt trừ các phiền não, lậu hoặc. Nhờ đó, tâm sẽ được an nhiên tự tại. Cùng với các Ba-la-mật vun bồi, sự nỗ lực công phu tu tập tới một lúc nào đó sẽ thánh nhập đạo-quả Vô thượng bồ đề, tức Niết bàn vị lai. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Tác giả: Tuệ Quang
Ni sinh TC Phật học Tiền Giang Biên tập và hiệu đính: QH. Trong thế giới đầy căng thẳng ngày nay, sức khỏe tâm thần đã trở thành một vấn đề cấp bách. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, cứ 1 trong 7 thanh thiếu niên toàn cầu đang mắc các rối loạn sức khỏe tâm thần, trong khi hàng năm có 700.000 người trong độ tuổi từ 15 đến 29 tử vong vì tự tử, khiến tự tử trở thành nguyên nhân gây tử vong hàng đầu đứng thứ 4 trong nhóm tuổi này (WHO, 2022[1]). Gánh nặng của bệnh tâm thần trải rộng qua một loạt các rối loạn, bao gồm rối loạn tâm thần lưỡng cực, lo âu, sử dụng chất gây nghiện, rối loạn hành vi và phát triển, tâm thần phân liệt và khuyết tật trí tuệ (AIHW, 2011[2]). Đối mặt với cuộc khủng hoảng sức khỏe ngày càng tăng này, đã có một sự quan tâm mới đến các tiếp cận dựa trên Chánh niệm trong những thập kỷ qua, đặc biệt là ở các nước phương Tây. Một trong những người tiên phong trong việc tích hợp Chánh niệm vào các trị liệu lâm sàng là Jon Kabat-Zinn, người đã xây dựng chương trình 'Giảm thiểu căng thẳng dựa trên Chánh niệm' (MBSR) vào năm 1979, với trọng tâm là thực hành thiền chánh niệm và thiền tâm từ (Kabat-Zinn, 2003[3]). Công việc của Kabat-Zinn đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc đưa sự thực hành phương Đông mang ảnh hưởng của tôn giáo vào các đối tượng thử nghiệm lâm sàng và tâm lý trị liệu phương Tây, mở ra cánh cửa mới cho cách thức chữa lành và tự phục hồi. Thiền Chánh niệm, có nguồn gốc từ sự thực hành cổ xưa của đạo Phật từ cách đây 2.600 năm, được hiểu rõ bởi những hành giả thực hành vipassanā tức tu tập thiền quán. Thuật ngữ "thiền Phật giáo" liên quan chặt chẽ đến mục đích cuối cùng là Niết bàn (Sanskrit: निर्वाण, nirvāṇa; Pali: nibbāna), đại diện cho sự tự do tuyệt đối khỏi mọi ngọn nguồn khổ đau thông qua sự thực hành truyền thống được mô tả chi tiết trong bản kinh nổi tiếng the Satipatṭhāna sutta - Bốn nền tảng thiết lập Chánh niệm trong tạng Kinh cổ ngữ Pali (Pāli Nikāya[4]). Do vậy, trọng tâm của các can thiệp trên nền tảng Chánh niệm[5] đương đại nằm ở sức mạnh của việc trau dồi sự hay biết và hiện diện trong khoảnh khắc hiện tại. Chánh niệm không chỉ liên quan tới việc chú tâm đến các suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta, mà còn hòa nhịp lắng nghe các cảm giác thể chất, hơi thở và môi trường xung quanh. Chánh niệm khuyến khích chúng ta thiết lập sự kết nối sâu sắc với bản thân, với mọi người và với thế giới xung quanh, nuôi dưỡng cảm giác kết nối tương hỗ và lòng trắc ẩn. Đó là sự trải nghiệm và ghi nhận khoảnh khắc hiện tại một cách trọn vẹn, thay vì bị lạc dòng tư tưởng bởi những lo lắng về quá khứ hoặc tương lai. Một trong những khía cạnh độc đáo của các can thiệp chánh niệm là hướng tiếp cận toàn diện trong trị liệu, bao gồm tâm trí, thân thể và tinh thần. Chánh niệm mời gọi chúng ta phát triển một mối quan hệ đầy cảm thông với chính mình và thế giới xung quanh, để sống đúng mục đích và thiện ý. Thông qua việc thực hành thường xuyên liên tục, hành giả thấy được sự tiến bộ về nhận thức bản thân và kiểm soát cảm xúc tốt hơn, giảm thiểu căng thẳng, cải thiện chức năng nhận thức, cải thiện mối quan hệ, nuôi dưỡng khả năng tự phục hồi và sự bình an nội tâm. Theo đó, các thử nghiệm với can thiệp chánh niệm đã được chứng minh là có tác động sâu sắc đến sức khỏe tâm lý và hạnh phúc thân-tâm mà không yêu cầu chẩn đoán cụ thể về trạng thái tâm thần. Hơn nữa, các can thiệp dựa trên chánh niệm hiện nay, gọi tắt là liệu pháp chánh niệm hay can thiệp chánh niệm, đã được ứng dụng hiệu quả trong việc điều trị khá nhiều các biến chứng tâm thần, bao gồm lo âu, trầm cảm, mất ngủ, rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD), nghiện và rối loạn ăn uống. Với những phiền muộn và căng thẳng không ngừng trong nhịp sống hiện đại ngày nay, những khoảnh khắc an yên dần trở nên quý hiếm và trở thành một xu thế tìm kiếm. Chúng ta thường thấy bản thân lạc lối trong sự hỗn loạn của dòng suy tư, lo lắng và trách nhiệm; quên đi việc sống trọn vẹn trong từng khoảnh khắc hiện tại. Tuy nhiên, giữa bối cảnh hỗn loạn đó tồn tại một phương thức giản đơn nhưng vô cùng mạnh mẽ, có thể mang chúng ta trở lại khám phá chân lý cuộc sống - đó là thực hành Chánh niệm. [1] World Health Organization 2022, Mental health, World Health Organization, online webpage, viewed 2 April 2023, https://www.who.int/features/factfiles/mental_health/en/
[2] AIHW 2011, Impact and causes of illness and death in Australia 2011, Australian Burden of Disease Study series, Number 3 [3] Kabat-Zinn, J. (2003). Mindfulness-based stress reduction (MBSR). Constructivism in the Human Sciences, 8(2), 73–107. [4] Bản kinh gốc Pāli này có một vài dị bản tương ưng có thể tìm tham khảo trong bộ A-hàm Hán tạng như MA 98, MA 31, v.v. [5] mindfulness-based interventions (MBIs) Quý vị thân mến! Trong những bài viết trước, chúng tôi đã cố gắng nêu ra những kiến thức mang tính học thuật về các Liệu pháp Thiền hay Tâm lý trị liệu, nhấn mạnh vào nền tảng Thiền Phật giáo (gọi tắt là Thiền Trị liệu) trong việc ứng dụng một liệu pháp tâm lý cho các tổn thương tinh thần và cảm xúc cá nhân giữa những khủng hoảng toàn cầu thời đương đại. Trong bài viết này, người thực hiện giao lưu cùng ChatGPT - một AI chatbox mới xuất hiện gần đây và vô cùng thú vị. Câu hỏi đưa ra bằng tiếng Việt, liên quan đến Liệu pháp Thiền Chánh niệm, cũng như việc nên hay không nên thực tập liệu pháp này cho từng đối tượng(*). Dưới đây là góc nhìn thuần túy của ChatGPT dựa trên những kho dữ liệu online khổng lồ. Một lần nữa, người thực hiện khuyến khích bạn đọc tham khảo, nhưng cũng cần thêm khảo nghiệm và đánh giá chuyên gia trước khi hoàn toàn đặt sự tin cậy vào nguồn dữ liệu thông minh này. Mến chúc bạn đọc có những phút giây nghiền ngẫm hữu ích! Chat GPT: Có nhiều trường hợp mà việc tham vấn tâm lý có thể hữu ích, bao gồm:
Phương pháp thiền và các liệu pháp tâm lý khác có nhiều điểm tương đồng như chú trọng đến tâm trí và cảm xúc, và đều được sử dụng để giải quyết các vấn đề tâm lý. Tuy nhiên, có những khác biệt chính giữa phương pháp thiền và các liệu pháp tâm lý khác như sau:
Mặc dù liệu pháp thiền có nhiều lợi ích cho tâm trí và cơ thể, nhưng không phải ai cũng phù hợp để thực hiện nó. Dưới đây là một số trường hợp khi không nên áp dụng liệu pháp thiền:
Liệu pháp chánh niệm là một phương pháp thiền tập trung vào việc giữ cho suy nghĩ của bạn luôn tập trung vào hiện tại và không bị lạc đề. Dưới đây là một số trường hợp khi không nên áp dụng liệu pháp chánh niệm:
ChatGPT: Bạn có thể gọi tôi là ChatGPT nhé. Người thực hiện: Quang Hằng (*) Nội dung trả lời của ChatGPT có hiệu đính nhẹ để giúp thông tin đưa tới bạn đọc tốt hơn. Theo khảo cứu sơ bộ, các dữ liệu được trích dẫn bởi báo địa phương và UNICEF Việt Nam đóng vai trò như một lời cảnh tỉnh cho chính phủ và xã hội Việt Nam nói chung để ưu tiên và đầu tư vào các nguồn lực và hệ thống hỗ trợ về sức khỏe tinh thần. Bài báo gần đây được đăng tải online trên một tờ báo địa phương tại Việt Nam đã đưa ra những lo ngại nghiêm trọng về tình trạng sức khỏe tâm thần trong nước. Những con số được thu thập từ Khoa Tâm thần của Bệnh viện Bạch Mai đã cho thấy rằng khoảng 30% dân số Việt Nam[1] đã từng trải qua ít nhất một rối loạn tâm thần trong suốt cuộc đời của họ. Càng đáng lo ngại hơn, một nửa số người bị ảnh hưởng đã tìm kiếm những phương thức trị liệu cho các vấn đề tâm lý (Le, 2022)[2]. Ngoài ra, UNICEF Việt Nam (2018) cũng đã triển khai một nghiên cứu trên diện rộng về sức khỏe tinh thần và tình trạng tâm lý của trẻ em và thanh niên trong nước[3]. Nghiên cứu này cho thấy rằng từ 8% đến 29% dân số trẻ Việt Nam đang gặp phải vấn đề sức khỏe tâm thần. Trước đây trong truyền thống Phật giáo, giới tu sĩ thường được biết đến với lối sống ẩn cư và tu tập như một kỷ luật tôn giáo. Tuy nhiên, thời nay, việc thực hành tu tập trong Phật giáo đã chuyển dịch sang cách tiếp cận sứ mệnh hóa, bao gồm việc nghiên cứu kinh điển, truyền bá các giáo lý Phật giáo và tham gia các hoạt động xã hội (Schedneck, 2021)[4]. Việc sử dụng thiền chánh niệm (mindfulness meditation) như một cách thức giúp giảm bớt khổ đau tinh thần và thúc đẩy sức khỏe tâm lý trong xã hội hiện đại không hoàn toàn giống với Tự do Niết Bàn, nói cách khác là sự tận diệt khổ đau của con người, mà giới tu sĩ Phật giáo đã hành trì xuyên suốt 2,600 năm kể từ khi Đức Phật Gotama chứng ngộ và chỉ dẫn lộ đạo cho hàng cư sĩ và đệ tử. Ngày nay, sự quan tâm đến lợi ích của thiền chánh niệm đã tăng lên đáng kể, cả trong lĩnh vực học thuật và tâm lý lâm sàng trong vài thập kỷ gần đây (Germer et al. 2005; Tirch et al. 2016; Gold & Zahm 2018)[5]. Sự phổ biến của thiền chánh niệm hiện đại đã trở thành một xu hướng gia tăng từ các quốc gia phương Tây về lại phương Đông, đặc biệt là trong bối cảnh các xung đột và khủng hoảng toàn cầu, khi mọi người tìm nhiều cách để vượt qua các bất ổn tinh thần cá nhân và cải thiện hiện trạng tâm lý của mình. Ở các nước chịu ảnh hưởng của Phật giáo như Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam, thiền chánh niệm đã trở thành một phong trào thế tục được đông đảo cư sĩ ủng hộ. Sự chuyển đổi từ thực hành tôn giáo truyền thống sang các hình thức tu tập chánh niệm thế tục đang là lời giải cho những đòi hỏi phức tạp và nhu cầu đổi thay tất yếu của xã hội hiện đại. Khác với các xã hội truyền thống hoặc cổ xưa, nơi mà sự thực hành văn hóa và tín ngưỡng có thể thường được nhìn nhận mang tính tập thể và tôn giáo, các xã hội hiện đại ngày nay được đặc trưng bởi lối sống vội, những chuẩn mực văn hóa không ngừng thay đổi, những tiến bộ công nghệ AI và sự thể hiện cá nhân đậm nét. Việc chú trọng đặc biệt đến thực hành chánh niệm được minh chứng là một phương thức để mọi cá nhân trong các xã hội đô thị giải quyết những vấn đề tâm lý cũng như hướng đến sự cân bằng, hòa bình và ý nghĩa của cuộc sống. Quang Hằng --- [1] Tới 2023, dân số Việt Nam ước tính khoảng 100 triệu người. Dữ liệu trích xuất 15/02/2023, https://www.worldometers.info/world-population/vietnam-population/ [2] Le Duy, 2022. “We are not paying enough mind to mental illnesses”. Perspectives. VNExpress International. Retrieved on 15 Feb 2023, https://e.vnexpress.net/news/perspectives/we-are-not-paying-enough-mind-to-mental-illnesses-4428398.html [3] Nghiên cứu này thực hiện khảo sát dân số trẻ của đại diện 10 trên 63 tỉnh thành Việt Nam. Dữ liệu trích xuất 16/02/2023, https://www.unicef.org/vietnam/reports/mental-health-and-psychosocial-wellbeing-among-children-and-young-people-viet-nam [4] Dữ liệu trích xuất 15/02/2023 https://doi.org/10.1093/acrefore/9780199340378.013.875 [5] Sách tham khảo GIỮA HAI TRUYỀN THỐNG THIỀN VÀ TRỊ LIỆUCó nhiều sự tương đồng giữa các khía cạnh chữa lành của Đạo Phật và các hoạt động trị liệu của liệu pháp tâm lý. Bốn Chân lý (Tứ Diệu Đế) nền tảng được thuyết giảng bởi Đức Phật có thể song hành với chiến lược điều trị của tâm lý trị liệu. Chân lý đầu tiên về sự khổ đã được xác thực bởi chính bệnh nhân kèm theo các triệu chứng được nhận dạng. Chân lý thứ hai về nguồn gốc của đau khổ là nhiệm vụ của nhà trị liệu – ông phải làm rõ với người bệnh các nguyên nhân, trong đó chứa đựng những tác động nằm sâu kín nơi tâm đưa đến sự khổ. Chân lý thứ ba về sự chấm dứt khổ, thường được thể hiện qua niềm hi vọng của người bệnh. Điều này đã dẫn bệnh nhân đến với việc trị liệu nhưng ở một mức độ khác, trị liệu có thể khiến họ sợ hãi. Nhà trị liệu cũng phải có hi vọng ngay cả khi người bệnh đang trải qua một giai đoạn vô cùng bất lực và thất vọng đi kèm những trạng thái hỗn loạn [biểu lộ] trong giờ trị liệu. Đạo Phật khi được hiểu đúng, là một tôn giáo rất tích cực và đầy hi vọng. Các nhà trị liệu có kinh nghiệm biết rằng chính niềm tin trong công việc họ làm thường đem đến hi vọng để tiếp tục giúp đỡ các thân chủ, thậm chí cả khi thân chủ cảm thấy vô vọng về chính mình. Chân lý thứ tư là con đường thoát khổ; sự thực hành theo Bát Chánh Đạo là liều thuốc chữa lành đến từ Đức Phật. Đối với nhà trị liệu tâm lý, các liệu pháp và kế hoạch điều trị thường phát huy hiệu quả trong sự hợp tác cùng bệnh nhân. Tuy nhiên, việc chúng ta hiểu rõ sự khác và cách biệt giữa hai truyền thống này cũng không kém phần quan trọng. Dù cả hai đều là trái cây, nhưng một thứ là táo và thứ còn lại là cam – mà táo và cam thì không giống nhau. Có những khác biệt thật sự trong tiến trình trị liệu, và kết quả cuối cùng đến với cá nhân cũng khác nhau trên hành trình riêng phù hợp theo truyền thống. Một đệ tử Phật thực hành thiền nghiêm túc biết rằng đây là con đường duy nhất hướng tới Niết Bàn, để chấm dứt khổ đau. Anh ấy sẽ ngày càng tăng trưởng sự hay biết được tinh lọc thông qua mô thức thiền quen thuộc. Anh ấy thực ra đang tu dưỡng lại tâm thức mình và toàn bộ thân-tâm ấy đang được điều chỉnh lại. Trong tâm lý trị liệu, chúng ta chỉ thuần túy nỗ lực thay thế những suy nghĩ, cảm xúc và hành động bằng những lựa chọn khác lành mạnh hơn. Cần thừa nhận đây là một cách tái tạo tâm trí mà chúng ta hi vọng sẽ mang lại kết quả về cách hành xử đẹp hơn, bao gồm việc cải thiện các mối quan hệ liên cá nhân. Trị liệu sẽ chấm dứt khi chúng ta, theo một nghĩa nào đó, có thể viết lại câu chuyện của chính mình. Đúng là khi có thể hiểu ra ý nghĩa của những khởi đầu thời thơ ấu và kể lại câu chuyện đời mình một cách bình thản và rành mạch, chúng ta đã quan tâm tới những thiếu hụt trong quá trình phát triển và xử lý những mâu thuẫn tiềm ẩn bên trong. Cũng có sự cách biệt rõ rệt giữa hai truyền thống. Con đường của Thiền Phật giáo là một trải nghiệm đơn độc. Đó là một công việc vất vả, đòi hỏi nhiều công phu và chậm rãi hướng về tính không vị kỷ. Còn hành trình trị liệu tâm lý nhấn mạnh mối tương quan trong các liệu pháp tâm lý theo định hướng phân tâm học. Mối quan hệ chuyển di, phản-chuyển di giữa bệnh nhân và nhà trị liệu cần được quan sát và xử lý. Phần lớn các thân chủ đến với trị liệu vì họ có một cảm nhận về thực thể nhân cách nghèo nàn hoặc mong manh. Trải nghiệm các liệu pháp tâm lý giúp họ phát triển một cảm nhận về bản ngã mạnh mẽ và có tính cố kết hơn. Cảm nhận về nhân cách này được giả định (phải) hiện hữu ở các vị Thiền sư Phật giáo trong quá trình dẫn dắt đệ tử trên hành trình thiền tập. Vì vậy, không hề ngạc nhiên rằng nếu không có sự kiểm tra kỹ đối với các ứng viên, thỉnh thoảng sẽ có một vài cá nhân suy sụp đến mức hoảng loạn tinh thần khi chính tiến trình thiền làm trỗi dậy cảm nhận mong manh về bản ngã, làm cá nhân mất đi khả năng chống chịu [các tổn thương][1]. (tiếp phần sau) Nguyên tác Tiếng Anh: Dr. Eng-Kong Tan (2006) Nhóm dịch giả Thiền Trị Liệu (2022) [1] Đây là một trải nghiệm nhạy cảm cần đến một vị cố vấn Thiền sư đặc biệt có kinh nghiệm. Nếu ứng viên đang có những vẫn đề tâm lý nặng, sự hỗ trợ của một nhà trị liệu có thể rất kịp thời để tránh những hệ lụy không mong muốn. Trường hợp khác, bằng kinh nghiệm cố vấn, thiền sư có thể nhận ra hành giả đang ở tầng tuệ quán ghi nhận sự chán nản, sự nguy hiểm, sự yểm li với cuộc sống và thân mạng; theo đó đưa ra những lời khuyên đặc hữu phù hợp để hành giả duy trì nỗ lực, tinh tấn trong thực hành. Lịch sử Thiền Trị LiệuTrong vài thập kỷ qua, đã có một sự quan tâm trở lại đối với việc kết hợp Đạo Phật – một truyền thống phương Đông hơn 2,500 tuổi – với các phương pháp trị liệu tâm lý phương Tây đã tồn tại khoảng gần một thế kỷ. Bài viết này sẽ mô tả một tổng quan về lịch sử của các ấn bản đã được công bố có nội dung xen phủ Thiền (trong Đạo Phật) với Trị Liệu kể từ những năm 1960s. Vào cuối thập niên 50, một cuộc hội thảo về trường phái Zen (Thiền) trong Đạo Phật và Phân tâm học trong Tâm lý đã được tổ chức dưới sự bảo trợ của Trường Y khoa Tự trị Mexico. Tham gia hội thảo có khoảng 50 chuyên gia tâm thần học và [nhà] tâm lý học từ cả Mexico và Mỹ. Có nhiều tài liệu đã được trình bày tại hội nghị, và vào năm 1986, Erich Fromm đã xuất bản cuốn sách của ông có tựa là “Phân tích tâm lý và Thiền Phật giáo”[1]. Cuốn sách chủ yếu gồm những tư tưởng của ông sau các cuộc thảo luận phong phú xuyên suốt cuộc hội thảo với bậc thầy của trường phái Zen D.T. Suzuki. Trong chương cuối cùng, ông đã đưa ra những điểm tương đồng trong cuộc hành trình phân tâm “giải tỏa sự dồn nén” và hành trình tâm linh kiếm tìm sự giác ngộ của Đạo Phật. Tương tự, Alan Watts trong cuốn sách thường được trích dẫn của ông – cuốn “Liệu pháp tâm lý Đông và Tây”, đã nhấn mạnh một nền tảng chung giữa lĩnh vực tâm thần học phương Tây và các triết lý phương Đông. Ông đã kết luận rằng theo những cách và với những mức độ khác nhau, các triết lý phương Đông, đặc biệt là Đạo Phật, và liệu pháp tâm lý phương Tây đều đưa cá nhân tham gia những thử nghiệm mà qua đó ảo tưởng về một bản ngã tách biệt được phơi bày. Cả hai truyền thống này theo đó có thể cho cá nhân thực nghiệm một cảm nhận về thực thể nhân cách lành mạnh hơn. Năm 1988, cuốn “Tâm thức thiền định” của Daniel Goleman đã cung cấp cho người Tây phương một bản ghi toàn diện về nghệ thuật và khoa học thiền định đến từ các tôn giáo lớn trên thế giới. Trong phần hai của cuốn sách, ông viết chủ yếu về Thiền Phật giáo, bao gồm việc nhắc tới Abhidhamma – Luận tạng hay Vi diệu pháp, như một phạm trù Tâm lý học phương Đông. Kể từ năm 1990, với việc công bố một chương trình thử nghiệm trong các bệnh viện mang tên Liệu pháp Giảm thiểu Lo âu trên nền tảng Chánh niệm (MBSR[2]), GS. John Kabat-Zinn cùng cuốn sách với cái tên rất hấp dẫn của ông là “Cách sống đầy thảm hoạ” đã làm trỗi dậy mối quan tâm về việc ứng dụng Thiền Chánh niệm của Phật giáo trong một loạt các bệnh lý y khoa bao gồm hoảng loạn, lo âu, trầm cảm và cơn đau mãn tính. Sự thực hành trên Chánh niệm giờ đây đang được giảng dạy sớm cho sinh viên Y khoa để giúp đỡ chính họ trong một ngành nghề vốn nhiều căng thẳng cũng như để họ hướng dẫn về tính hữu dụng của thiền cho các bệnh nhân. Thiền Chánh niệm giờ đây xác lập được vị trí vững chắc như là một kỹ thuật khoa học có kiểm chứng có thể được áp dụng để điều trị ngày càng nhiều các bệnh lý về thể chất và tâm lý. Năm 1992, Jack Kornfield đã xuất bản cuốn “Con Đường với Trái tim”. Đây là một cuốn sách chỉ dẫn một cách chi tiết với sự hài hước lớn cũng như nội thị cách thức thực hành các giáo lý toàn diện của Phật giáo cho người phương Tây. Kornfield đã dành cuốn sách để tri ân những người thầy trong Đạo Phật đến từ các truyền thống Tây Tạng, Thái Lan, Ấn Độ và Miến Điện. Năm 1996, nhà phân tâm học và trị liệu tâm lý Jeffrey B. Rubin đã xuất bản cuốn sách với tựa đề đơn giản là “Liệu pháp tâm lý và Đạo Phật – Hướng tới một sự kết hợp”. Ông kết luận rằng Trường phái phân tâm học (trong tâm lý học phương Tây) và Đạo Phật có thể được kết hợp để giúp hiện thực hóa những thế mạnh chuyên biệt và tiềm năng giải thoát [khỏi những nỗi đau tâm lý]. Kể từ năm 1997, ngài Đạt Lai Lạt Ma đã thường xuyên gặp nhóm các nhà khoa học (được lựa chọn) để thảo luận về mối tương giao và những chiếc cầu nối giữa sinh học, khoa học nhận thức, khoa học não bộ, tâm lý học và triết học – những ngành học có mối liên hệ gần nhất với truyền thống Phật giáo. Trong phần ba của “Chuỗi chương trình Tâm thức và Cuộc sống”, câu hỏi về việc bằng cách nào tâm thức có thể chữa lành cơ thể của chúng ta đã được đặt ra. Bản ghi chép thuật lại cuộc hội thảo giữa những vị Giảng sư trong Phật giáo và các học giả phương Tây đã được xuất bản trong cuốn sách “Chữa lành Cảm xúc”, được biên tập bởi Daniel Goleman. Gần đây nhất, sau bi kịch ngày 11/9/2001, Viện Tâm thức và Cuộc sống đã xuất bản cuốn sách vào năm 2003 với đề tựa là “Những xúc cảm hủy diệt – và làm thế nào chúng ta có thể vượt qua chúng”. Cuốn sách này nỗ lực trả lời cho câu hỏi tại sao có những người có vẻ tỉnh táo và thông minh lại phạm những tội ác và gây bạo lực; và cái gì có thể là nguyên nhân gốc rễ đưa đến những hành vi hủy diệt. Mới đây vào tháng 5/2005, Christopher Germer cùng các đồng nghiệp đã viết và biên tập một cuốn sách có tính thực hành cung cấp một hiểu biết toàn diện về Chánh niệm và những ứng dụng đương đại trong trị liệu. Cuốn sách này giờ đây là nguồn tham khảo cần thiết đối với bất kỳ ai quan tâm tới Thiền hay các tiếp cận có nền tảng khoa học khác nhằm phát huy hiệu quả của Tâm lý Trị liệu. (tiếp phần sau) Nguyên tác Tiếng Anh: Dr. Eng-Kong Tan (2006) Nhóm dịch giả Thiền Trị Liệu (2022) Thiền và Tâm lý trị liệuĐạo Phật du nhập vào phương Tây thông qua thiền. Năm 1975, Herbert Benson đã viết tác phẩm “Hồi đáp trong thư thái”[1], trong đó ông đã thuật lại những thay đổi về thể chất và tâm lý trong các hình thức thiền khác nhau. Theo liệt kê của ông, có giảm nhịp tim, nhịp thở, huyết áp và sự tiêu hao ôxy. Nồng độ axit lactic (vốn có hại cho các tế bào não) cũng giảm và có một sự tĩnh tại bao trùm hệ thống thần kinh. Sức đề kháng của da tăng lên đáng kể, sóng alpha và theta của EEG[2] (điện não đồ) cũng tăng đã phản ánh trạng thái tĩnh tại hơn bao trùm não bộ. Giờ đây chúng ta biết rằng chính “sự hồi đáp trong thư thái” của quá trình thiền là cơ sở sinh học thần kinh và vật lý cho việc thực hành thiền để trị liệu. Một người hành thiền đều đặn sẽ phát triển sự hiểu biết về thực thể nhân cách (của chính mình), tinh thần trách nhiệm và định lực. Các phương pháp thiền của Đạo Phật giúp xây dựng niềm tin, ứng xử đạo đức, sự rộng lượng, lòng bi mẫn và từ tâm nơi hành giả. Đặc biệt, thiền giúp tăng trưởng năng lực tự kiềm chế, nó cho chúng ta tiếp cận những hình ảnh và xúc cảm còn lẩn khuất trong chính tâm thức mình. Thông qua thiền, chúng ta có thể dung nạp, chấp nhận quá khứ của mình và cũng có thể đối mặt với các vấn đề về thời gian, trải nghiệm những đổi thay, hay đương đầu với sự mất mát và cái chết. Thiền giúp hợp nhất thân thể và tâm trí chúng ta, nó cũng đặc biệt hữu dụng đối với các cá nhân được chẩn đoán sang chấn tâm lý[3]. Liên quan tới những diễn biến tâm lý khi thiền, Chánh niệm tạo nên một vòng hoạt động làm tăng cường sự tự vận hành các chức năng (não bộ), đưa đến hoàn thiện một thực thể nhân cách lành mạnh hơn – mà cảm quan về nhân cách này giúp tác động lên năng lực tùy chỉnh (của tâm thức). Tiến trình này theo đó sẽ góp phần phát triển một tổ hợp nhân cách lớn hơn, đưa đến sự thấu hiểu các đặc tính cá nhân, và quay lại củng cố tâm thái phù hợp. Sự dung hợp [kì diệu] này giúp chúng ta tiếp cận những dữ kiện của tầng vô thức trong tâm trí, sau đó sẽ lại được chú tâm xử lý trong quá trình thiền. Có ba chương trình trị liệu chính hướng dẫn thực hành Chánh niệm cho các bệnh nhân. Liệu pháp Giảm thiểu Lo âu trên nền tảng Chánh niệm (MBSR) được khởi xướng bởi GS. Jon Kabat-Zinn để chữa trị cho các bệnh nhân mãn tính tại bệnh viện của một trường đại học. MBSR được triển khai cho nhóm, chia thành các buổi với thời lượng hai tiếng rưỡi kéo dài trong 08 tuần. Bài tập về nhà bao gồm 45 phút thiền mỗi ngày, sáu ngày mỗi tuần. Bài thực hành chính là ngồi thiền và chú tâm yoga. Khóa trị liệu cũng bao gồm phương pháp thiền quan sát thân thể, ở đó bệnh nhân nằm xuống và theo dõi các cảm giác trên thân. Chánh niệm trong đời sống hàng ngày bao gồm đi, đứng và ăn. Cho đến nay trong vòng 02 năm, 12,000 bệnh nhân đầu tiên đã tham gia. Trong suốt khóa trị liệu, các triệu chứng về thể chất và tâm lý đã giảm xuống khoảng 40%. Sau 04 năm khảo sát, hiệu quả vẫn được duy trì và 93% số bệnh nhân vẫn tiếp tục tham gia vào một phần của chương trình trị liệu. Những kết quả ấn tượng này đã khích lệ các nhà trị liệu khác đưa chánh niệm tích hợp vào bộ phương pháp trị liệu của họ. Liệu pháp nhận thức dựa trên chánh niệm[4] (MBCT) đã được Segal và các cộng sự xây dựng (và cải tiến) để ngăn ngừa sự tái phát chứng trầm cảm mãn tính. Đây là một cách chữa trị dưới dạng cẩm nang hướng dẫn thực hành MBSR nhưng không có yoga. Không gian thở 3-phút được chú trọng thực hành như một kỹ năng cốt lõi. Góc nhìn chánh niệm trong MBCT là sự hay biết rằng “suy nghĩ không phải sự kiện thực” và rằng chúng ta có thể để các suy nghĩ đến và đi, thay vì cố gắng tranh luận về sự tồn tại của chúng như trong thực nghiệm Liệu pháp nhận thức hành vi[5] (CBT) truyền thống. Liệu pháp hành vi biện chứng[6] (DBT) được định hình bởi Marsha Linehan để giúp các bệnh nhân bị Rối loạn Cảm xúc Lưỡng cực – những người gặp khó khăn trong việc kiểm soát cảm xúc. Các kỹ thuật chánh niệm trong DBT[7], ứng dụng từ truyền thống Zen cùng sự thực hành của Thày Thích Nhất Hạnh (1976), được coi là kỹ năng cốt lõi hướng dẫn cho nhóm 2 hoặc 3 thành viên trong các khóa trị liệu. Chúng bao gồm việc đếm hơi thở, mỉm cười tĩnh tại, tập trung hay biết các hoạt động thực tại, gọi tên cảm xúc, để cho ý nghĩ đến và đi, thực hành không phán xét, làm một việc một lúc, chấp nhận hoàn toàn các cảm xúc, và tưởng tượng rằng tâm trí giống như một bầu trời lớn với những ý nghĩ và cảm xúc như những đám mây trôi qua. Trọng tâm của liệu pháp DBT là giúp người bệnh cải thiện các mối quan hệ liên cá nhân của họ. Hakomi, được tạo ra bởi Ron Kurtz, là một liệu pháp lấy thân thể làm trung tâm. Phương pháp cơ bản của nó là tạo ra một mối quan hệ cho phép bệnh nhân thiết lập chánh niệm, khơi dậy các trải nghiệm trong trường chánh niệm ấy và xử lý các trải nghiệm được khơi dậy. Vì vậy, bước đầu nhà trị liệu cần tạo ra một mối quan hệ an toàn để tạo thuận lợi cho việc thiết lập chánh niệm. Nhà trị liệu và thân chủ sử dụng chánh niệm nhằm mục đích tăng trưởng độ nhạy cảm. Độ nhạy cảm này là cần thiết để thân chủ đi sâu hơn vào tiềm thức, và khơi dậy các trải nghiệm về thái độ cảm xúc và niềm tin cốt lõi. Khi thực hiện liệu pháp, nhà trị liệu sử dụng các trải nghiệm được khơi dậy để giúp thân chủ hiểu [sự kiện] và thay đổi. Dữ kiện lõi (trong tầng vô thức) vốn không thể tiếp cận được nhờ trí thông minh, mà phải qua chánh niệm và sự giáo dục. Do đó, liệu pháp Hakomi sẽ hoạt động trong các trạng thái hay biết của ý thức. Thomas Morita là người sáng lập ra phương pháp trị liệu Morita, một liệu pháp được sử dụng ở Nhật Bản mang đậm truyền thống Zen. Theo Morita, các vấn đề của bệnh nhân là hệ quả của việc bị cầm tù trong chính “sự chủ quan” và ích kỷ bản thân. Phương thuốc là thực hành Zen (thiền) và khuyến khích việc chấp nhận mọi thứ như chúng đang là (vậy). Liệu pháp hướng về Quá trình cốt lõi được xây dựng bởi Maura Sills. Việc huấn luyện trị liệu Quá trình cốt lõi dựa trên bản chất có thể chuyển hóa của nhận thức. Nhà trị liệu tâm lý Phật giáo tham gia và có mặt cùng với thân chủ. Phương pháp này bao gồm các nguyên lý căn bản của Đạo Phật là sự tương thuộc và ba đặc tính của pháp hữu vi, đó là: sự bất toại nguyện (dukkha), vô thường (anicca) và bản chất ảo tưởng về tự ngã (anatta). Nhà trị liệu tâm lý Phật giáo trực tiếp đề nghị song hành cùng thân chủ đi qua trải nghiệm tâm lý và tâm linh của họ. Lòng bi mẫn của nhà trị liệu được chú trọng như một phẩm chất tất yếu. Loại hình trị liệu tâm lý này đặc biệt dựa trên năng lực chuyển hóa của mối quan hệ trị liệu. Mỗi buổi trị liệu là một buổi thực hành giữa thân chủ và nhà trị liệu trên nền tảng các triết lý và giá trị của Đạo Phật. Nguyên tác Tiếng Anh: Dr. Eng-Kong Tan (2006) Nhóm dịch giả Thiền Trị Liệu (2022) [1] “The Relaxation Response” [2] An electroencephalogram (EEG) is a recording of brain activity. During this painless test, small sensors are attached to the scalp to pick up the electrical signals produced by the brain. These signals are recorded by a machine and are looked at by a doctor. Tham khảo: https://www.nhs.uk/conditions/electroencephalogram/#:~:text=An%20electroencephalogram%20(EEG)%20is%20a,looked%20at%20by%20a%20doctor. [3] Psychosomatic conditions: Bệnh lý về thể chất không rõ nguyên nhân, thường được gây ra bởi những căng thẳng hay rối loạn cảm xúc. Tham khảo: https://www.britannica.com/science/psychosomatic-disorder [4] Mindfulness Based Cognitive Therapy (MBCT) [5] Cognitive Behavioural Therapy (CBT) [6] Dialectical Behavioural Therapy (DBT) [7] Tham khảo: http://bvttdongthap.vn/?ifsoft=nws&uid=des&id=21&sid=11189 Chánh niệm trong Trị liệuChánh niệm được định nghĩa, được sử dụng như thế nào? Và chánh niệm đã tác động tới các phương pháp trị liệu tâm lý phương tây ra sao? Một trong những định nghĩa đầy đủ nhất về liệu pháp chánh niệm đến từ Jon Kabat-Zinn. Ông định nghĩa chánh niệm như “sự hay biết khởi lên thông qua việc chú tâm một cách có chủ đích, ở khoảnh khắc hiện tại và không phán xét đối với việc mở ra kinh nghiệm trong từng khoảnh khắc”. Bạn cũng có thể thấy mình được hiện thân ngay giữa ý niệm của thực tánh vô thường trong định nghĩa này. Người bệnh rồi sẽ nhận ra điều mà họ đang chịu đựng, dù là cảm giác đau đớn hay vui sướng, thì cũng đến rồi đi. Họ sẽ bắt đầu thay đổi mối quan hệ của chính mình với nỗi đau đang gánh chịu. Trong đời sống, nỗi đau là không thể tránh khỏi nhưng tự chúng ta cũng có thể điều chỉnh (về mặt tâm lý) ngưỡng chịu đựng nỗi đau. Trong thiền Vipassana, với đề mục quán niệm nỗi đau, khi chúng ta chủ ý tự chìm đắm mình để hòa hợp với cơn đau, thì chúng ta sẽ đi đến một niềm vui bất ngờ rằng cơn đau dần tan ra và biến mất, ít nhất là trong chốc lát. Chúng ta cũng đồng thời thuần thục cách vượt qua nỗi đau đến một chừng mực nhất định. Tất nhiên để Chánh niệm có mặt trước tiên chúng ta phải có một tâm trí tĩnh lặng. Nhiều thân chủ đã yêu cầu [nhà trị liệu] phải thực hành thư giãn trước, một số thậm chí đề nghị kỹ thuật tự thôi miên để giúp tâm yên lặng. Trong thực hành chánh niệm, thân chủ sẽ trải nghiệm khả năng theo dấu những gì đang diễn ra trong tâm. Việc này đòi hỏi người bệnh phải bao dung với những điều không biết trong từng khoảnh khắc. Anh ấy học được cách đầu hàng thực tại và bỏ đi ham muốn liên tục kiểm soát mọi thứ như trước đây, như thể muốn giảm bớt lo âu thì phải đặt chúng trong tầm kiểm soát. Người bệnh học được một nghịch lý rằng ngay khi từ bỏ ham muốn kiểm soát, họ kinh nghiệm sự bình an. Anh ấy học cách tôn trọng những hiện tượng đang khai mở tâm trí. Với hành trình trị liệu tâm lý, trong suốt thời khắc thực hành chánh niệm, thân chủ tự do cho phép những dữ kiện của tiềm thức nổi lên trên bề mặt, đi qua hàng rào dồn nén[1] để tiến vào vùng ý thức. Nhà trị liệu và thân chủ sau đó có thể sẽ xử lý dữ kiện để giải tỏa bất kỳ những thiếu hụt hay xung đột cảm xúc có phát sinh. Do vậy, khi liệu pháp chánh niệm được áp dụng trong trị liệu, bệnh nhân có thể tận dụng khoảng không-thời gian được khởi tạo trong tâm trí để suy tưởng, xem xét, và tái thương lượng với những khuôn mẫu quá khứ. Chánh niệm cũng đồng thời đưa đến tuệ quán, sự thấu tỏ. Trong Vipassana, những tuệ quán đó là Ba thực tánh của pháp hữu vi: khổ (dukkha), vô thường (anicca) và vô ngã (anatta). Trong tâm lý trị liệu, sự thấu tỏ là hiểu ý nghĩa của các triệu chứng [tâm lý] và nguyên nhân sâu xa của chúng. Khi thực hành tỉnh thức, nhà trị liệu và thân chủ cùng bắt đầu trải nghiệm sự kham nhẫn lớn lao, khởi sinh lòng trắc ẩn đưa đến tiến trình tự chấp nhận [nỗi đau] và quay trở lại an dưỡng thân chủ. Trong liệu pháp này, bước đầu tình yêu thương (metta) hiện diện nơi nhà trị liệu được coi là một động lực chữa lành [vết thương] cho người bệnh. Ở giai đoạn sau của hành trình trị liệu, thân chủ có thể học cách vun bồi tình yêu thương nơi chính mình để tự chữa lành tâm thức. Nhà phân tâm học người Anh, Donald Winnicott hệ thuyết hóa về nhu cầu cần mẹ lúc ban đầu của trẻ sơ sinh hay trẻ nhỏ. Dần dần, đứa trẻ phát triển khả năng ở một mình bằng cách tự dung nạp sự hiện diện của người mẹ trong tâm trí. Thực tế đây là cách mà tâm trí đứa trẻ phát triển và trưởng thành. Những triệu chứng tâm lý xuất hiện khi tâm trí bị giới hạn tiến trình phát triển. Vì vậy, tâm thái và cảm xúc của người chăm nuôi có vai trò đặc biệt quan trọng với sự phát triển và trưởng thành tâm thức của trẻ. Trong phòng tham vấn, không cần phải nhắc lại rằng trạng thái tâm của nhà trị liệu là một nhân tố vô cùng quan trọng góp phần vào kết quả trị liệu cho thân chủ. Câu hỏi thường được đặt ra là tác nhân nào làm nên khóa trị liệu thành công. Đã có một số lượng đáng kể các công trình nghiên cứu về đề tài này. Các kết luận đều thống nhất rằng yếu tố nơi thân chủ mang tính quyết định hơn cả. Cụ thể là, ưu thế nhận được các hỗ trợ xã hội và tầng động lực chiếm khoảng 40% hiệu quả chữa trị! Mối quan hệ trị liệu tự nó đóng góp 30% hiệu lực. Điều thú vị là, phương thức và liệu pháp của nhà trị liệu chỉ chiếm khoảng 15%, và 15% còn lại thuộc về các yếu tố giả dược, bao gồm sự mong đợi thay đổi. Liên quan đến mối quan hệ trị liệu, trạng thái tâm của nhà trị liệu trong suốt các giờ trị liệu là yếu tố cốt lõi. Những nhà trị liệu có sự hành thiền liên tục và có thể đưa tâm về trạng thái chánh niệm tức thì, sẽ có khả năng trị liệu tốt hơn. Một nhà trị liệu thực hành theo nền tảng Phật giáo có thể áp dụng thiền chánh niệm để tăng trưởng tuệ quán hướng về thực thể an yên, hạnh phúc. Ông ấy có thể bài trí phòng tham vấn của mình như một phòng thiền. Ông ấy hay biết những khoảnh khắc định tĩnh chính là liệu pháp thực hành trong mỗi giờ trị liệu. Đồng thời khi nhà trị liệu trải nghiệm những cảm xúc phản chuyển di[2] mãnh liệt, ông cần để tâm tĩnh lặng quan sát những cảm xúc này, theo đó phân loại tác lực nào đưa đến những cảm xúc ấy – đến từ những vấn đề của chính ông hay bị kích hoạt bởi thân chủ. Nhà trị liệu có thể thực hành thiền chánh niệm để tự chấp nhận mình với lòng đầy bi mẫn, cũng như đầy thấu cảm hòa giải tâm thái riêng của bản thân ở mọi thời khắc làm việc cùng thân chủ. ---------------------------- (còn tiếp) Quang Hằng chuyển ngữ ----------------------------- [1] Repression, dồn nén, là một cơ chế phòng vệ giữ cho thông tin không đi vào vùng nhận thức của tâm trí. Cách thức này giúp một cá nhân tự né tránh những cảm xúc đau buồn. Tuy nhiên, cảm xúc ấy chỉ tạm thời bị bỏ quên bởi vì thông tin về sự kiện của quá khứ không hề mất đi, chúng vô thức tác động lên hành vi của chủ thể sau này. [2] Counter-transference, phản chuyển di hay chuyển di ngược là một hiện tượng trong trị liệu mà những vấn đề trong vô thức (chưa được giải quyết) của nhà trị liệu gây tác động lên thân chủ. Tham khảo: http://tailieudientu.lrc.tnu.edu.vn/Upload/Collection/brief/brief_28353_31931_2152012820395797208931PB.pdf |
Quang HằngVới sự hứng thú trong Thiền, Phật học ứng dụng, và Sức khỏe tâm lý, các bài viết được góp nhặt và đăng tải với hy vọng giúp Đạo hữu và cư sĩ hiểu hơn về lợi ích của Thiền trong Tâm lý trị liệu. Archives
April 2024
Categories
All
|