|
THIỀN TRỊ LIỆU | Tâm lý trị liệu trên nền tảng Thiền Phật giáo
Chánh niệm trong Trị liệuChánh niệm được định nghĩa, được sử dụng như thế nào? Và chánh niệm đã tác động tới các phương pháp trị liệu tâm lý phương tây ra sao? Một trong những định nghĩa đầy đủ nhất về liệu pháp chánh niệm đến từ Jon Kabat-Zinn. Ông định nghĩa chánh niệm như “sự hay biết khởi lên thông qua việc chú tâm một cách có chủ đích, ở khoảnh khắc hiện tại và không phán xét đối với việc mở ra kinh nghiệm trong từng khoảnh khắc”. Bạn cũng có thể thấy mình được hiện thân ngay giữa ý niệm của thực tánh vô thường trong định nghĩa này. Người bệnh rồi sẽ nhận ra điều mà họ đang chịu đựng, dù là cảm giác đau đớn hay vui sướng, thì cũng đến rồi đi. Họ sẽ bắt đầu thay đổi mối quan hệ của chính mình với nỗi đau đang gánh chịu. Trong đời sống, nỗi đau là không thể tránh khỏi nhưng tự chúng ta cũng có thể điều chỉnh (về mặt tâm lý) ngưỡng chịu đựng nỗi đau. Trong thiền Vipassana, với đề mục quán niệm nỗi đau, khi chúng ta chủ ý tự chìm đắm mình để hòa hợp với cơn đau, thì chúng ta sẽ đi đến một niềm vui bất ngờ rằng cơn đau dần tan ra và biến mất, ít nhất là trong chốc lát. Chúng ta cũng đồng thời thuần thục cách vượt qua nỗi đau đến một chừng mực nhất định. Tất nhiên để Chánh niệm có mặt trước tiên chúng ta phải có một tâm trí tĩnh lặng. Nhiều thân chủ đã yêu cầu [nhà trị liệu] phải thực hành thư giãn trước, một số thậm chí đề nghị kỹ thuật tự thôi miên để giúp tâm yên lặng. Trong thực hành chánh niệm, thân chủ sẽ trải nghiệm khả năng theo dấu những gì đang diễn ra trong tâm. Việc này đòi hỏi người bệnh phải bao dung với những điều không biết trong từng khoảnh khắc. Anh ấy học được cách đầu hàng thực tại và bỏ đi ham muốn liên tục kiểm soát mọi thứ như trước đây, như thể muốn giảm bớt lo âu thì phải đặt chúng trong tầm kiểm soát. Người bệnh học được một nghịch lý rằng ngay khi từ bỏ ham muốn kiểm soát, họ kinh nghiệm sự bình an. Anh ấy học cách tôn trọng những hiện tượng đang khai mở tâm trí. Với hành trình trị liệu tâm lý, trong suốt thời khắc thực hành chánh niệm, thân chủ tự do cho phép những dữ kiện của tiềm thức nổi lên trên bề mặt, đi qua hàng rào dồn nén[1] để tiến vào vùng ý thức. Nhà trị liệu và thân chủ sau đó có thể sẽ xử lý dữ kiện để giải tỏa bất kỳ những thiếu hụt hay xung đột cảm xúc có phát sinh. Do vậy, khi liệu pháp chánh niệm được áp dụng trong trị liệu, bệnh nhân có thể tận dụng khoảng không-thời gian được khởi tạo trong tâm trí để suy tưởng, xem xét, và tái thương lượng với những khuôn mẫu quá khứ. Chánh niệm cũng đồng thời đưa đến tuệ quán, sự thấu tỏ. Trong Vipassana, những tuệ quán đó là Ba thực tánh của pháp hữu vi: khổ (dukkha), vô thường (anicca) và vô ngã (anatta). Trong tâm lý trị liệu, sự thấu tỏ là hiểu ý nghĩa của các triệu chứng [tâm lý] và nguyên nhân sâu xa của chúng. Khi thực hành tỉnh thức, nhà trị liệu và thân chủ cùng bắt đầu trải nghiệm sự kham nhẫn lớn lao, khởi sinh lòng trắc ẩn đưa đến tiến trình tự chấp nhận [nỗi đau] và quay trở lại an dưỡng thân chủ. Trong liệu pháp này, bước đầu tình yêu thương (metta) hiện diện nơi nhà trị liệu được coi là một động lực chữa lành [vết thương] cho người bệnh. Ở giai đoạn sau của hành trình trị liệu, thân chủ có thể học cách vun bồi tình yêu thương nơi chính mình để tự chữa lành tâm thức. Nhà phân tâm học người Anh, Donald Winnicott hệ thuyết hóa về nhu cầu cần mẹ lúc ban đầu của trẻ sơ sinh hay trẻ nhỏ. Dần dần, đứa trẻ phát triển khả năng ở một mình bằng cách tự dung nạp sự hiện diện của người mẹ trong tâm trí. Thực tế đây là cách mà tâm trí đứa trẻ phát triển và trưởng thành. Những triệu chứng tâm lý xuất hiện khi tâm trí bị giới hạn tiến trình phát triển. Vì vậy, tâm thái và cảm xúc của người chăm nuôi có vai trò đặc biệt quan trọng với sự phát triển và trưởng thành tâm thức của trẻ. Trong phòng tham vấn, không cần phải nhắc lại rằng trạng thái tâm của nhà trị liệu là một nhân tố vô cùng quan trọng góp phần vào kết quả trị liệu cho thân chủ. Câu hỏi thường được đặt ra là tác nhân nào làm nên khóa trị liệu thành công. Đã có một số lượng đáng kể các công trình nghiên cứu về đề tài này. Các kết luận đều thống nhất rằng yếu tố nơi thân chủ mang tính quyết định hơn cả. Cụ thể là, ưu thế nhận được các hỗ trợ xã hội và tầng động lực chiếm khoảng 40% hiệu quả chữa trị! Mối quan hệ trị liệu tự nó đóng góp 30% hiệu lực. Điều thú vị là, phương thức và liệu pháp của nhà trị liệu chỉ chiếm khoảng 15%, và 15% còn lại thuộc về các yếu tố giả dược, bao gồm sự mong đợi thay đổi. Liên quan đến mối quan hệ trị liệu, trạng thái tâm của nhà trị liệu trong suốt các giờ trị liệu là yếu tố cốt lõi. Những nhà trị liệu có sự hành thiền liên tục và có thể đưa tâm về trạng thái chánh niệm tức thì, sẽ có khả năng trị liệu tốt hơn. Một nhà trị liệu thực hành theo nền tảng Phật giáo có thể áp dụng thiền chánh niệm để tăng trưởng tuệ quán hướng về thực thể an yên, hạnh phúc. Ông ấy có thể bài trí phòng tham vấn của mình như một phòng thiền. Ông ấy hay biết những khoảnh khắc định tĩnh chính là liệu pháp thực hành trong mỗi giờ trị liệu. Đồng thời khi nhà trị liệu trải nghiệm những cảm xúc phản chuyển di[2] mãnh liệt, ông cần để tâm tĩnh lặng quan sát những cảm xúc này, theo đó phân loại tác lực nào đưa đến những cảm xúc ấy – đến từ những vấn đề của chính ông hay bị kích hoạt bởi thân chủ. Nhà trị liệu có thể thực hành thiền chánh niệm để tự chấp nhận mình với lòng đầy bi mẫn, cũng như đầy thấu cảm hòa giải tâm thái riêng của bản thân ở mọi thời khắc làm việc cùng thân chủ. ---------------------------- (còn tiếp) Quang Hằng chuyển ngữ ----------------------------- [1] Repression, dồn nén, là một cơ chế phòng vệ giữ cho thông tin không đi vào vùng nhận thức của tâm trí. Cách thức này giúp một cá nhân tự né tránh những cảm xúc đau buồn. Tuy nhiên, cảm xúc ấy chỉ tạm thời bị bỏ quên bởi vì thông tin về sự kiện của quá khứ không hề mất đi, chúng vô thức tác động lên hành vi của chủ thể sau này. [2] Counter-transference, phản chuyển di hay chuyển di ngược là một hiện tượng trong trị liệu mà những vấn đề trong vô thức (chưa được giải quyết) của nhà trị liệu gây tác động lên thân chủ. Tham khảo: http://tailieudientu.lrc.tnu.edu.vn/Upload/Collection/brief/brief_28353_31931_2152012820395797208931PB.pdf |
Quang HằngVới sự hứng thú trong Thiền, Phật học ứng dụng, và Sức khỏe tâm lý, các bài viết được góp nhặt và đăng tải với hy vọng giúp Đạo hữu và cư sĩ hiểu hơn về lợi ích của Thiền trong Tâm lý trị liệu. Archives
April 2024
Categories
All
|