|
THIỀN TRỊ LIỆU | Tâm lý trị liệu trên nền tảng Thiền Phật giáo
Sức khỏe tinh thần được biết đến là gánh nặng lớn thứ ba ở nước Úc, chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm gần 200 loại bệnh không gây tử vong (xem Hình 1). Nhóm các bệnh tinh thần đáng chú ý bao gồm nhiều hiện trạng bệnh lý đa dạng như “rối loạn lưỡng cực, rối loạn lo âu, lạm dụng dược chất, rối loạn phát triển hành vi, tâm thần phân liệt và thiểu năng trí tuệ” (theo Viện Sức khỏe và Phúc lợi Úc - AIHW 2011, trang 149). Đáp lại những lo âu về sức khỏe tinh thần, trong các thập niên gần đây xuất hiện một mối quan tâm ngày càng lớn đối với các kỹ thuật trị liệu trên nền tảng Thiền và Chánh niệm (theo Shonin và các tác giả, 2014a). THIỀN LÀ GÌ?Thiền trong tiếng Pali và tiếng Phạn là bhāvāna[i] được ghi nhận đã tồn tại trước lịch sử chữ viết xuyên suốt pháp hành dhyāna[ii] (thiền định) thuộc các tôn giáo Đông Phương cổ đại. Theo đó nguồn gốc của Thiền mang nhiều dạng thức tôn giáo khác nhau từ Ấn Độ giáo (Hinduism), Kỳ Na giáo (Jainism), Phật giáo Ấn Độ cho đến Đạo giáo (Lão giáo) và Phật giáo Trung Hoa (theo Everly & Lating 2013, trang 201-4). Viện Khoa Học Tinh Thần (Institute of Noetic Science - IONS) dựa trên những nghiên cứu và công trình xuất bản đã định nghĩa Thiền là “một trong những chìa khóa thực tiễn cho việc nuôi dưỡng sự chuyển hóa tích cực trong nhận thức”. Trong khi đó Hiệp Hội Thiền Úc Châu (Meditation Association of Australia) nhận định Thiền như một phương diện quan trọng trong triết lý phương Đông giúp chấm dứt mọi khổ đau[iii]. Tác giả John Strong (2015, trang 150) hoàn toàn đồng quan điểm khi nói “chánh niệm và chánh định, hai trong tám chi phần của Bát Chánh Đạo, theo truyền thống được xem là hai yếu tố của sự tu thiền”. Để hiểu được mục tiêu tối thượng của triết lý đạo Phật là đạt đến Niết Bàn (Nirvana), Strong đã giải thích tóm lược Niệm (sati) và Thiền quán (vipassanā-bhāvanā), phân biệt chúng với Thiền định (samatha-bhāvanā) trước khi đi đến ý niệm rằng “trí tuệ đến từ sự tỉnh thức với thực tại” (trang 153). Việc áp dụng thực tiễn chánh niệm trong tâm lý trị liệu như một liệu pháp phục hồi cũng như trong các thử nghiệm lâm sàng (theo Germer và một số tác giả 2005, Kabat-Zinn 1990, Didonna 2008) đã tạo nên sự phổ biến của Thiền quán ở Tây phương từ những năm 1960. Cũng thời điểm này triết lý về Thiền của Đông Phương cổ đại được chú ý và lan tỏa (theo Viện Khoa Học Tinh Thần - IONS). Tuy nhiên, tiếp cận Thiền còn bao gồm sự thực hành tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) hay các yếu tố tâm linh khác. Vì thế trong khuôn khổ bài viết này, tác giả sẽ tóm lược mô thức Thiền đương đại đang được thực hành ngày nay. Theo sau đó là một dẫn giải sơ lược các giá trị Phật giáo gắn liền với Thiền trong thực tiễn truyền thống từ góc nhìn học liệu Tây phương. Cuối cùng, quan điểm của tác giả về cách áp dụng liệu pháp Thiền vì hạnh phúc cá nhân sẽ được chia sẻ nhanh cho mục tiêu thực nghiệm tương lai. [i] Tự điển Wikipedia về Thiền Bhavana, https://en.wikipedia.org/wiki/Bhavana [ii] Dhyana từ tiếng Phạn, hoặc trong tiếng Pali là jhana, dùng để chỉ trạng thái thiền để đạt đến định (samatha, hay samadhi). [iii] “Thiền để giác ngộ” (QH | 12-2018) |
Quang HằngVới sự hứng thú trong Thiền, Phật học ứng dụng, và Sức khỏe tâm lý, các bài viết được góp nhặt và đăng tải với hy vọng giúp Đạo hữu và cư sĩ hiểu hơn về lợi ích của Thiền trong Tâm lý trị liệu. Archives
April 2024
Categories
All
|